CÁ LĂNG CHẤM
CÁ
LĂNG CHẤM
Hemibagrus guttatus
(Lacépède, 1803).
Pimelodus
guttatus
Lacépède, 1803
Macrones
chinensis
Chevey &
Lemasson, 1937
Hemibagrus
elongatus hongus
Mai Đinh Yen,
1978
Mystus gutlatus
Cui ni Chu & Chen, 1990
Hemibagtus hongus
Kottlat, 2001.
Họ: Cá ngạnh Bagridae
Bộ: Cá nheo Siluriformes
Đặc
điểm nhận dạng:
Cá cỡ lớn, thân
trần dài, phần trước dẹp bằng, sau dẹp bên. Đầu rộng, bẹt và tương đối dài. Mõm
rộng, phía trước hơi bằng. Mắt ở phía trên và nửa trước của đầu. Khoảng cách 2
mắt rộng bằng. Lỗ mũi trước và sau xa nhau. Có 4 đôi râu. Râu hàm dài nhất tới
mút sau
vây bụng. Miệng to, kề dưới, hình cung nông. Hai hàm có răng dạng lông nhung
xếp thành dải. Răng trên xương vòm xếp thành dải hình cung nông, giữa nhỏ và 2
bên to hơn. Vây lưng cao, tia gai vây lưng dài, phía sau có răng cưa. Hậu môn
gần vây bụng hơn vây hậu môn. Vây đuôi phân thuỳ sâu. Đường bên hoàn toàn, bằng
thẳng. Bóng hơi 2 ngăn. Lưng xám đen, bụng trắng nhạt, bên thân có nhiều chấm
đen to nhỏ.
Vây
lưng, vây mỡ và vây đuôi màu hơi đen.
Vây ngực, vây bụng và vây hậu môn màu nhạt.
Sinh
học, sinh thái:
Cá sống
ở tầng đáy, có kích thước lớn, tối đa tới 40kg/con, thường gặp cỡ 1 - 4kg. Cá
lăng chấm ở sông Hồng sau 1 năm dài 22 - 25cm, sau 2 năm chiều dài tăng gấp đôi.
Những năm sau cá tăng trưởng chiều dài giảm nhưng tăng về khối lượng nhanh. Cá
có tuổi lớn nhất tới 13 - 15 năm. Cá lăng là loài cá dữ điển hình. Cá nhỏ có phổ
thức ăn khá rộng gồm: ấu trùng,
côn trùng, giun ít tơ, rễ cây... Cá lớn ăn chủ yếu là cá con, tôm cua, mùn
bã hữu cơ, thực vật...
Cá lăng cái thành
thục vào tuổi 3+, dài 61cm, nặng 1,6kg. Cá đực thành thục vào 4 tuổi,
dài 72cm, nặng 2,7kg. Mùa sinh sản từ tháng 4 - 6, đẻ muộn có thể tới tháng 8.
Khi sinh sản cá di cư lên vùng trung và thượng lưu các sông, nơi nước chảy, đáy
nhiều sỏi đá. Bãi Cá lăng đẻ trên sông Hồng tập trung từ Yên Bái lên Lào Cai,
trên sông Đà Từ Tạ Khoa (Sơn La) lên Lai Châu; trên sông Lô - Gâm từ Tuyên Quang
đến Hà Giang. Cá
đẻ trứng trong hang đá, hốc ngầm tự nhiên hoặc đào thành hố để đẻ. Cá bố mẹ
có tập tính chăm sóc con cái.
Phân bố:
Trong nước:
Các sông lớn ở phía Bắc: sông Hồng, sông Thái Bình, sông Kỳ Cùng, sông Mã, sông
Lam tới sông Trà Khúc - Quảng Trị.
Thế giới:
Trung Quốc và Lào.
Giá trị:
Là loài cá quý,
hiếm. Sản lượng cá ở trung và thượng lưu các sông
lớn khá cao. Cá có triển vọng trở thành cá nuôi.
Tình trạng:
Nơi cư trú của cá
bị thu hẹp trên 20% do xây dựng các hồ chứa thủy lợi và thủy điện. Nhiều sông
suối bị lũ lớn, vùng sinh thái nơi sống và bãi đẻ bị đảo lộn, hạn chế việc khôi
phục số lượng. Cá lăng chấm bị săn lùng nhiều để cung cấp cho tiêu dùng và xuất
khẩu. Sản lượng Cá lăng chấm ở sông Hồng từ 26 - 30 tấn/năm: hồ chứa Hoà Bình 8
- 9 tấn, sông Lô - Gâm 9 - 10 tấn, sông Thao 5 - 6 tấn, hồ Thác Bà 4 - 5 tấn.
Sản lượng hiện nay chỉ còn 2,2% so với những năm 1960 -1970 (Phạm Báu & Nguyễn
Đức Tuân, 1998).
Phân hạng:
VU A1c,d B2a,b.
Biện pháp bảo vệ:
Đã được đưa vào
Sách Đỏ Việt Nam (1992, 2000) với mức độ đe doạ
bậc V và danh sách các loài cần bảo vệ của ngành Thuỷ sản từ năm 1996. Tuy
nhiên vẫn chưa có quy chế về khai thác và bảo vệ loài cá này. Cần giảm cường độ
khai thác Cá lăng chấm, cấm đánh bắt trên các bãi đẻ từ tháng 4 - 7. Cần nghiên
cứu kỹ hơn về loài cá này và sớm tạo được cá giống phục vụ cho các vùng nuôi và
bổ sung phục hồi nguồn lợi tự nhiên.
Tài liệu dẫn:
Sách đỏ Việt Nam 2007 - phần động vật - trang 31.