LỢN RỪNG
LỢN RỪNG
Sus
scrofa
Linnaeus,
1758
Họ: Lợn
Suidae
Bộ: Ngón chẵn
Artiodactyla
Đặc điểm nhận dạng:
Lợn rừng nặng 40 - 200 kg,
dài thân 1.350 - 1.500mm, dài đuôi 200 - 300mm. Thân ngắn, đầu lớn, ngực nở,
phần mông nhỏ hơn phần đầu ngực. Bộ lông thô, cứng màu đen xám. Lông gáy dài,
dày và rậm. Khi bị kích thích hàng lông này dựng lên trông con vật dữ tợn. Răng
nanh thường phát triển to dài chìa ra ngoài môi. Lợn con có nhiều sọc vàng chạy
dọc thân.
Sinh học, sinh thái:
Lợn rừng sống trong tất cả
các dạng sinh cảnh, từ rừng thứ sinh, rừng thưa, ven các nương rẫy... Không sống
trên núi đá. Không có nơi ở cố định. Sống đàn 5 - 20 con, kiếm ăn
đêm (từ chập tối đến gần sáng), ngày nghỉ trong các bụi rậm. Thích đằm mình
trong vũng nước. Mùa đông lợn làm tổ để nằm. Lợn rừng ăn tạp gồm các loại củ,
quả giàu tinh bột, các loại quả cây rừng, măng tre nứa, chuối và nhiều động vật
(nhái, ngoé, giun đất, ong..).
Lợn rừng sinh sản quanh năm,
mang thai khoảng 4 tháng, đẻ mỗi năm một hoặc hai lứa, mỗi lứa 7 - 12 con. Lợn
mẹ làm tổ đẻ rất chu đáo. Lợn con đẻ sau 30 phút có thể đi lại bình thường, một
tuần sau có thể đi theo mẹ và trưởng thành sinh dục sau hai năm tuổi.
Phân bố:
Thế giới: châu Âu, châu Á,
Bắc Phi.
Việt Nam: Lợn rừng có mặt
khắp các tỉnh miền núi và trung du, Đây là loài duy nhất thuộc họ
Lợn Suidae
phân bố ở nước ta.
Giá trị sử dụng:
Lợn rừng cho da lông, thực
phẩm. Trong hoạt động kiếm ăn lợn rừng ủi đất làm cho đất tơi xốp, thoáng khí và
hàng năm chúng thải ra cho đất rừng một lượng lớn phân và nước giải. Tuy nhiên
lợn rừng cũng gây một số tác hại cho hoa màu lương thực trên nương rẫy, phá hoại
măng tre nứa.
Tình trạng:
Số lượng lợn rừng ở nước ta
còn tương đối nhiều. Ngành lâm nghiệp cần quản lý và sử dụng tốt nguồn lâm sản
này để tăng nguồn thu nhập kinh tế.
Tài liệu
dẫn:
Động vật rừng
- Phạm Nhật - trang
189.