SAM BA GAI ĐUÔI
SAM BA GAI ĐUÔI
Tachypleus tridentatus
Leach
Họ: Sam Xiphosuridae
Bộ: Đuôi kiếm Xiphosura
Đặc điểm nhận
dạng:
Sam cái có chiều
dài trung bình 300mm - 4000mm và Sam đực có chiều dài trung bình 250mm - 300mm
(không kể đuôi). Vỏ đầu ngực có dạng gáo hình móng ngựa, mép trước tròn dạng
vòng cung, ở con đực hơi bị lõm vào ở đọan giữa, góc bên phía sau kéo dài đến
nửa chiều dài bụng. Bụng không phân đốt; 2 mép bên xiên và mỗi bên mang 6 gai
dài gần bằng nhau cử động được và 6 gai nhỏ cố định, xếp xen kẽ nhau; trên mép
sau chỗ nối với đuôi có 3 gai nhỏ - đây là đặc điểm để phân biệt với loài T.
gigas (chỉ 1 có gai). Đuôi hình kiếm dài, tiết diện cắt ngang hình tam giác.
Sinh học, sinh
thái:
Sam sống trong
môi trường đáy cát pha bùn, thường sống vùi, di chuyển bằng cách bò trên nền
đáy. Thức ăn của Sam chủ yếu là sinh vật đáy. Giới tính của Sam chỉ có thể phân
biệt sau 3 năm tuổi. Vào khoảng tháng 3 - 4 đến tháng 9 - 10, Sam đực và Sam cái
thường tập trung ở các bãi triều cát trong các vịnh hay cửa sông để giao phối và
đẻ trứng. Sam thường đẻ trứng trên những bãi cát nóng và trứng được chôn sâu
khoảng 20cm, khi Sam cái đẻ vào ổ thì Sam đực có nhiệm vụ thụ tinh cho trứng.
Trứng Sam có vỏ dày bao bọc và có đường kính lớn nhất là 4,01mm, thường từ 25mm
đến 3,5mm. Sau 6 - 8 ngày ấu trùng Sam lột xác biến thành Sam con giai đoạn đầu
tiên, chúng có hình dạng giống Sam trưởng thành trừ chiều dài đuôi.
Phân bố:
Trong nước:
Rất
phổ biến ở biển Việt Nam, tập trung nhất ở các tỉnh ven biển miền Trung.
Thế giới:
Vùng Ấn Độ - Tây Thái Bình
Dương: Từ Biến Đỏ và Đông Phi đến Nhật Bản. Quần đảo Sôlômôn, Ôxtrâylia.
Giá trị:
Ngoài ý nghĩa
khoa học là hóa thạch sống của kỷ Ordovician, các loài Sam nói chung và
Sam ba gai đuôi - T. tridentatus - nói riêng, còn có giá trị về dược học.
Đã phát hiện trong máu Sam có chứa nhiều chất có hoạt tính sinh học cao, có khả
năng phát hiện độc tố endotoxin của vi khuẩn gram âm rất nhạy, vì vậy được sử
dụng làm chất thử thuốc trong sản xuất dược phẩm.
Tình trạng:
Trước năm
1990, vào khoảng tháng 2 - 4, rất thường gặp Sam con và Sam trưởng thành tập
trung ở các bãi cát vùng triều cửa sông và ven biển, phổ biến nhất là ở các tỉnh
ven biển miền Trung, diện tích phân bố khoảng 5001 - 20000km2. Trong
vòng 10 năm gần đây, khi nghề nuôi trồng hải sản ven bờ phát triển, con người đã
xâm hại nơi cư trú của Sam con, đồng thời phá hủy và thu hẹp các bãi đẻ của Sam,
ít nhất 20% diện tích. Về sản lượng, ước tính trong 10 năm gần đây giảm hơn 20%.
Phân hạng:
VU A1c Ba,b,c.
Biện pháp bảo vệ:
Đã đưa vào Sách
Đỏ Việt Nam năm 1992 và năm 2000. Kiến nghị: cần có các khu bảo tồn để bảo vệ
các bãi đẻ của Sam.
Tài
liệu dẫn:
Sách đỏ
Việt Nam - phần động vật – trang - 55