GÀ LÔI LAM MÀO ĐEN
GÀ LÔI LAM MÀO ĐEN
Lophura imperialis
(Delacour et Jabouille, 1924)
Hierophasis imperialis
Delacour et Jabouille, 1924.
Họ: Trĩ Phasianidae
Bộ: Gà Galliformes
Đặc điểm nhận
dạng:
Con đực trưởng
thành có màu xanh lam thẫm.
Mào
lông ở gáy màu lam đen. Lưng, cánh và đuôi màu đen, mép lông màu lam ánh thép.
Hai lông đuôi ở giữa nhọn, dài và ngắn dần ở các đôi tiếp theo 2 bên. Da trần
quanh mặt đỏ tía, tạo thành thuỳ nhỏ ở hai bên trán. Mắt màu đỏ da cam, mỏ màu
lục vàng nhạt hay màu sừng, chân đỏ tía. ở con đực non gần tuổi thành thục có bộ
lông màu nâu tối, nhiều chỗ có vân mảnh trắng ngà, đầu, mào, cổ và ngực màu lam
đen. Con
cái trưởng thành không có mào rõ ràng.
Bộ lông
nhìn chung có màu nâu hạt dẻ. Các phần khác có màu tương tự như ở con đực.
Sinh
học, sinh thái:
Trong
nuôi nhốt chim đẻ vào tháng 6, mỗi lứa đẻ 5 - 7 trứng vỏ trứng màu kem hay hồng
thẫm với các chấm trắng nhỏ.
Thời gian ấp 25
ngày. Cũng như các loài Gà lôi khác, Gà lôi lam mào đen ăn côn
trùng, các loại hạt, quả cây trong rừng.
Gà lôi lam mào
đen được tìm thấy đầu tiên trên thế giới ở khu vực rừng xanh ẩm trên núi đá vôi
giữa tỉnh Quảng Bình và Quảng Trị. Mẫu chim đực non tìm thấy vào tháng 9 năm
1990, ở rừng thứ sinh trên độ cao 50 - 200m thuộc vùng nam tỉnh Hà Tĩnh (huyện
Kỳ Anh) và cũng có khả năng vùng Khe Nét (Tuyên Hoá, Quảng Bình). Cũng như các
loài trĩ khác, gà lôi lam mào đen ban ngày kiếm ăn ở mặt đất ban đêm bay lên cây
đậu ngủ. Trong cùng sinh cảnh còn gặp các loài trĩ khác như Trĩ sao, Gà tiền mặt
vàng, Gà lôi trắng, Gà so ngực gụ, Gà rừng...
Phân bố:
Trong nước: Vùng
phân bố lịch sử là Quảng Bình, Quảng Trị. Vùng phân bố mới phát hiện ở phía Nam
tỉnh Hà Tĩnh (vùng rừng Khe Nét, thượng nguồn sông Gianh thuộc huyện Kỳ Anh),
Quảng Bình (huyện Tuyên Hoá).
Thế giới: Theo
Delacour et al (1931) có khả năng ở Lào, dọc theo biên giới gần với khu phân bố
nói trên.
Giá trị:
Gà lôi lam mào
đen là loài đặc hữu của Việt nam, rất hiếm, có vùng phân bố hẹp, do đó có ý
nghĩa quan trọng đối với việc bảo vệ đa dạng sinh học toàn cầu.
Tình trạng:
Vùng phân bố lịch sử của gà
lôi lam mào đen nằm trong khu vực chiến tranh khốc liệt kéo dài ở Việt nam, rừng
bị huỷ hoại nặng nề, tiếp tục bị khai thác mạnh, cùng với hiện tượng săn bắt quá
mức, nên loài này gần như bị tuyệt chủng, vì thế từ sau năm 1990 cho đến nay
chưa tìm thấy lại. Khu vực thu mẫu cũ cho đến nay cũng vẫn là nơi rừng đã bị
biến đổi nặng nề.
Phân hạng:
CR A1b, c, d B1+ 2c, e C2a.
Biện pháp bảo vệ:
Đã được đưa vào
Sách Đỏ Việt Nam (1992, 2000), Danh Lục Đỏ IUCN (1996, 2000), Nghị định 18/HĐBT
(1992) và Nghị định 48/ NĐ-CP (2002), Phụ lục I của công ước CITES. Cần tiếp tục
điều tra nghiên cứu để làm rõ ranh giới khu phân bố, hiện trạng và số lượng của
chủng quần còn sót lại để đề xuất biện pháp bảo vệ, phục hồi chúng một cách
thích hợp.
Tài liệu dẫn:
Sách đỏ Việt Nam - phần động vật – trang 262.