Loài thú nhỏ
trong
họ nhà
Mèo
Felidae.
Bộ
lông mịn xốp, thay đổi lớn về hoa văn. Nền lông mầu xám xanh hay nâu son; có
nhiều vệt đen ở đầu, cổ và lưng; có hoa văn gần kiểu hoa văn của báo gấm nhưng
nhỏ hơn, bị đứt quãng và mờ lẫn trong nền lông lưng. Có 2 dải lông đen chạy từ
cổ đến gốc đuôi, tách biệt với các vân ở lưng; nhiều đốm nhỏ ở đùi. Đuôi dài xấp
xỉ dài thân và nhiều vệt đen nhỏ không thành vòng đuôi rõ như báo gấm.
Sinh học, sinh
thái:
Mèo gấm còn ít được nghiên cứu. Thức ăn gồm các loài chim, gậm nhấm nhỏ,
rắn,
bò sát, ếch nhái, côn trùng. Mèo sống và hoạt động ở vùng rừng núi cây gỗ
lớn và rừng tái sinh và kể cả trên núi đất và núi đá, hoạt động về đêm.
Phân bố:
Trong nước:
Nơi thu mẫu: Lai Châu, Lào Cai, Sơn La, Bắc Kạn, Phú Thọ, Đắk Lak, Lâm Đồng. Mèo
gấm phân bố rộng ở các vùng rừng núi trong toàn quốc.
Thế giới: Nêpan, Ấn Độ,
Mianma, Malaixia, Indonesia, Thái Lan.
Giá trị:
Thú quí, hiếm có
giá trị nghiên cứu khoa học và góp phần điều hoà số lượng cá thể các quần thể
con mồi.
Tình trạng:
Mèo gấm trước đây
khá phổ biến trong các khu rừng thường xanh và bán thường xanh. Do bị săn bắt
nhiều và sự thoái hoá rừng trữ lượng của mèo gấm bị giảm sút nghiêm trọng.
Đã được
đưa và Sách đỏ Việt Nam và Nhóm IB Nghị định 32/2006/NĐ-CP. Cần kiểm soát chặt
chẽ việc săn bắt và buôn bán động vật rừng, bảo vệ tốt nguồn con mồi trong các
khu rừng có mèo gấm sinh sống.
Tài
liệu dẫn: Sách đỏ Việt Nam
- phần động vật – trang 31.