Rái cá lông mượt
có thân hình dài mềm dẻo. Mõm ngắn hơi dẹp bề ngang, đầu tương đối tròn. Màng
bơi da trần phủ hết ngón. Vuốt dài, sắc. Tai lớn hơn tai rái cá thường, vành tai
tròn, có nắp che lỗ tai. Bộ lông mầu xám đến nâu hung, gần giống rái cá thường
nhưng lông dài và mịn mượt hơn. Môi trên, má, họng và cổ mầu trắng sữa; phần
trắng này kéo đến ngực. Lông bụng mầu sáng hơn trên lưng. Đặc điểm nổi bật khác
với các loài rái cá khác là đuôi dẹp ra hai bên dáng mái chèo.
Sinh học, sinh
thái:
Thức ăn chủ yếu
là cá, sau đến các loài khác như cua, ốc, ếch nhái,
lưỡng cư… Vùng sống và hoạt động gắn liền với các thuỷ vực: bờ biển, sông
ngòi, khe suối, có thể chỉ ở các vùng nước trong và chảy. Rái cá lông mượt đào
hang làm tổ ở các hốc cây, hốc đá. Chúng hoạt động cả đêm và ngày, sống theo
đàn, mỗi tổ 3- 5 con; lúc kiếm ăn có thể quy tụ thành đàn lớn 7 - 10 con. Khi
bơi chân áp sát thân, dùng đuôi để bơi như mái chèo. Nghiên cứu về sinh sản còn
ít, thời gian mang thai khoảng 63 ngày, mỗi lứa đẻ 2-3 con. Con sơ sinh yếu và
chưa mở mắt.
Phân bố:
Trong nước:
Nơi thu mẫu hoặc đã quan sát thấy gồm Quảng Ninh (vịnh Hạ long), Đắk Lắk, Lâm
Đồng. Rái cá lông mượt phân bố rộng trong cả nước.
Thế giới: Apganixtan,
Bănglađét, Irắc, Trung Quốc, Indonesia (Sumatra, Java, Borneo), Malaixia,
Xingapo, Nêpan, Pakixtan, Thái Lan.
Giá trị:
Có giá trị nghiên cứu
khoa học và góp phần điều hoà số lượng cá thể các
quần thể động vật thuỷ sinh.
Tình trạng:
Trước đây loài
này khá phổ biến với số lượng cá thể phong phú, nhưng hiện nay do săn bắt và
môi trường, nơi sống bị suy thoái nên vùng phân bố bị thu hẹp nhiều và số
lượng cá thể giảm sút nghiêm trọng.
Đã được đưa vào
Sách đỏ Việt Nam và nhóm IB Nghị Định 48/NĐCP (2002). Trước mắt cần nghiêm cấm
săn bắt, buôn bán và làm huỷ hoại, ô nhiễm môi trường nước nơi rái cá sinh sống.
Tài
liệu dẫn: Sách đỏ Việt Nam
- phần động vật – trang 31.