VƯỢN ĐEN MÁ TRẮNG
VOỌC ĐEN MÁ TRẮNG
Trachypithecus francoisi francoisi (De
Pousargues, 1898)
Semnopithecus francoisi
Pousargues, 1898
Họ:
Khỉ Cercopithecidae
Bộ:
Linh trưởng Primates
Đặc điểm nhận
dạng:
Bộ lông dày, màu
đen tuyền. Hai má trắng, đám lông trắng rộng vượt quá chỏm vành tai. Đầu thường
có mào lông đen. Đuôi dài hơn thân, mầu đen.
Sinh học, sinh
thái:
Voọc đen má trắng
chủ yếu sống ở rừng trên núi đá vôi và kiếm ăn trong các dải rừng kín thường
xanh tiếp giáp với rừng núi đá vôi gân vung sống của chúng. Voọc đen má trắng
sống đàn. Trước đây, đàn voọc thường rất đông, 20 - 30 con (Lê Hiền Hào, 1973),
nhưng hiện nay phổ biến tư 5 đến 15 con (Phạm Nhật, 2000). Hoạt động kiếm ăn của
Voọc đen má trắng diễn ra ngay hai buổi sáng và chiều, trưa nghỉ. Cường độ kiếm
ăn của voọc má trắng diễn ra mạnh vào hai thời điểm, đầu buổi sáng đến khoảng 10
giờ và từ 14 giờ đến 16 giờ 30 phút. Thời gian hoạt động trong ngày có khác
nhau. Mùa nóng Voọc rời chỗ ngủ sớm, về hang muộn va thời gian nghỉ trưa khá
dài. Về mùa lạnh, chúng đi kiếm ăn muộn và về hang ngủ sớm.
Voọc
đen má trắng ăn lá chồi non và
quả
cây rừng, không ăn động vật.
Bước đầu đã ghi
nhận được 44 loài thuộc 22 họ thực vật được Voọc đen má trắng sử dụng làm thức
ăn (Pham Nhật, 2000). Có nhiều loài thực vật được Voọc đen má trắng thích ăn
nhất là cây họ Dâu tằm Moraceae, Ba mảnh vỏ Ephorbiaceae, Cau dừa Arecaceae. Các số liệu nghiên cứu cho thấy tuy
Voọc má trắng ăn rất nhiều loại quả nhưng trong khẩu phần thức ăn thì khối lượng
lá, đặc biệt là cuộng chiếm tỷ lệ nhiều hơn các loại thức ăn quả và thân.
Voọc đen má trắng chủ yếu ngủ hang. Mùa nóng, chúng ngủ trên những tảng đá hoặc
cây gỗ trước cửa hang, mùa lạnh ngủ trong hang. Hang ngủ của Voọc thường tìm
thấy ở những nơi vách đá dựng đứng. Dẫn liệu sinh sản của Voọc đen má trắng còn
thiếu. Quan sát thực địa thường gặp con mẹ mang con non ở các tháng khác nhau
của năm, nhưng tập chung từ tháng 3 đến tháng 7. Mỗi lứa đẻ một con, con non mới
đẻ có bộ lông màu vàng.
Phân bố:
Trong nước: Hà
Giang, Cao Bằng, Tuyên Quang, Bắc Kạn, Lạng Sơn.
Thế
giới: Trung
Quốc (Quảng Tây).
Giá
trị:
Voọc
đen má trắng là loài linh trưởng quý hiếm và có giá trị
khoa học, thẩm mỹ.
Tình
trạng:
Chưa có
công trình nào nghiên cứu về số lượng quần thể Voọc đen má trắng. Lê Hiền Hào
(1973) cho biết loài này trước kia gặp phổ biến ở một số vùng như Cai Kinh (Lạng
Sơn), Ba Bể (Bắc Kạn). Thông tin thu được qua các đợt khảo sát thực địa trong
những năn gần đây ở Na Hang (Tuyên Quang), Ba Bể và Nà Rì (Bắc Kạn), Phong Quang
(Hà Giang), Hữu Liên (Lạng Sơn) cho thấy Voọc đen má trắng là loài hiếm. Nguyên
nhân chủ yếu gây sự suy giảm số lượng Voọc đen má trắng là do diện tích nơi sống
của chúng là các khu rừng tự nhiên trên núi đá vôi bị thu hẹp và do áp lực săn bắt.
Phân Hạng:
EN A1c,d C2a
Biện pháp bảo vệ:
IUCN (2000) xếp
loài này vào nhóm sẽ nguy cấp (VU). Hội nghị Linh trưởng tháng 10/1998 ở Hà Nội
và danh lục đỏ xếp Voọc má trắng vào nhóm nguy cấp (EN).
Phụ lục II CITES. Quyết định 194-CT (1986) về Quy định các khu rừng cấm;
Luật bảo vệ và phát triển rừng (1991),
nhóm IB trong Nghị định 32/2006/NĐ-CP.
Đã được bảo vệ ở
Vườn quốc gia Ba Bể, Khu bảo tồn thiên nhiên Na Hang, Khu bảo tồn thiên nhiên Na
Rì, Khu bảo tồn thiên nhiên Phong Quang, Khu bảo tồn thiên nhiên Hữu Liên. Đây
là những khu bảo vệ còn đủ các điều kiện sinh thái cần thiết cho loài này và
biện pháp bảo vệ nội vi vẫn được coi là tốt nhất. Cần tăng cường công tác quản
lý các Vườn quốc gia và Khu bảo tồn thiên nhiên nêu trên.
Tài
liệu dẫn:
Sách đỏ Việt Nam
- phần động vật – trang 31.