VOỌC MÔNG TRẮNG
VOỌC MÔNG TRẮNG
Trachypithecus delacouri
(Osgood, 1932)
Pithecus
delacouri
Osgood, 1932.
Họ: Khỉ Cercopithecidae
Bộ:
Linh trưởng Primates.
Đặc điểm nhận
dạng:
Bộ lông dày rậm,
thô và màu đen. Đầu có mào lông hình chóp đen. Đám lông trắng trên má rộng, vượt
lên trên vành tai. Lông vùng mông và đùi trắng. ở con cái, lông từ hông đến đùi
có sự thay đổi màu, bình thường màu trắng và chuyển sang màu nâu nhạt rồi nâu
thẫm trong thời kỳ mang thai và nuôi con non.
Đuôi
dài, lông dày, bông, sợi lông mọc vuông góc với đuôi và màu đen. Mặt trụi lông.
Mắt nâu đen. Voọc non mới sinh có bộ lông màu vàng tơ và bắt đầu chuyển dần sang
màu đen sau 4 tháng tuổi. Sau 10 tháng tuổi, toàn bộ cơ thể chuyển sang màu đen
rõ, phần hông, đùi màu trắng, chỏm lông đỉnh đầu màu vàng nhạt.
Sau 3 năm tuổi
màu lông giống con trưởng thành.
Sinh học, sinh
thái:
Voọc mông trắng
sống chủ yếu ở rừng cây gỗ trên núi đá vôi. Tuy nhiên do sự chia cắt, nên Voọc
mông trắng sống cả trong những sinh cảnh rừng nghèo, thậm chí chỉ có dây leo bụi
rậm (Vân Long, Ninh Bình). Cũng như các loài trên, Voọc mông trắng sống đàn. Kết
quả khảo sát thực địa cho thấy số lượng con trong đàn biến đổi từ 5 đến 10 con.
Vùng hoạt động kiếm ăn của Voọc mông trắng tương đối rộng, cả trên núi đất lẫn
núi đá nhưng chúng ngủ trên núi đá. Mùa nóng, Voọc mông trắng ngủ trên vách đá,
mùa lạnh ngủ hang. Kiếm ăn ngày hai buổi sáng và chiều, trưa nghỉ. Nghiên cứu
trong điều kiện nuôi nhốt cho thấy Voọc thường có giấc ngủ trưa bắt đầu từ
khoảng 12 giờ và tỉnh dậy vào khoảng 13 giờ. Thời gian ngủ trưa kéo dài từ 37
đến 60 phút.
Voọc
mông trắng ăn lá, chồi non và quả cây rừng.
Không
ăn động vật. Nghiên cứu thức ăn tại Trung tâm cứu hộ thú Linh trưởng Cúc Phương
đã ghi nhận được Voọc mông trắng ăn 204 loài thực vật thuộc 57 Họ. Trong 204
loài thực vật làm thức ăn, Voọc mông trắng ăn chồi lá 203 loài, ăn hoa của 16
loài, quả của 13 loài, củ 3 loài và ăn vỏ của 10 loài. Nhu cầu thức ăn trung
bình ngày là 1184g, (bằng 16.91% trọng lượng cơ thể) và phụ thuộc vào giới tính,
tuổi và thời tiết (chủ yếu là nhiệt độ) trong ngày. Lượng nước uống trong ngày
biến động từ 400 đến 500 ml/con.
Kẻ thù tự nhiên của chúng là các loài thú ăn thịt lớn.
Dẫn liệu sinh sản Voọc mông trắng còn ít. Quan sát tại Trung tâm cứu hộ thú
Linh trưởng Primates Cúc Phương cho thấy hoạt động giao phối của Voọc mông
trắng thường diễn ra vào hai thời điểm sáng sớm và sau buổi ăn chiều.
Thời gian giao phối kéo dài 15 dến 30 giây. Thời gian mang thai trung bình 196
ngày. Mùa sinh sản tập trung từ tháng 12 đến tháng 8. Mỗi lứa đẻ một con, con sơ
sinh nặng 350 - 500g. Bộ lông con sơ sinh màu vàng. Voọc trưởng thành sinh dục
sau 5 năm tuổi.
Phân bố:
Trong nước: Yên
Bái (Văn Chấn), Hoà Bình (Chi Nê), Ninh Bình (Cúc Phương, Vân Long), Thanh Hoá
(Hồi Xuân, Lang Chánh), Nghệ An (Quỳ Châu, Con Cuông), Hà Tĩnh (Hương Sơn).
Thế giới: Chỉ có
ở Việt Nam.
Giá trị:
Voọc mông trắng
là nguồn gen
đặc hữu, qúy hiếm. Theo dõi tập tính sinh thái của chúng để tìm hiểu về tiến
hóa của con người.
Tình trạng:
Voọc mông trắng
trước phân bố tương đối rộng. Do nơi sống bị mất, vùng phân bố bị thu hẹp và do
săn bắt nên số lượng đã suy giảm nghiêm trọng. Ước lượng hiện còn khoảng 270-302
cá thể (Nadler T., 2001)
Phân hạng:
CR
A1c,d C1+2a
Biện pháp bảo vệ:
Sách đỏ Việt Nam
(1992) xếp Voọc mông trắng ở mức nguy cấp (E). Hội nghị Linh trưởng tháng
10/1998 ở Hà Nội, IUCN (2000) xếp loài này vào nhóm rất nguy cấp (CR). Phụ lục
II CITES. Quyết định 194-CT (1986) về Quy định các khu rừng cấm; Luật bảo vệ và
phát triển rừng (1991), nhóm IB trong
Nghị định 32/2006/NĐ-CP. Đã được bảo vệ ở Vườn quốc gia Cúc phương, Khu bảo
tồn thiên nhiên Vân Long, Pu Luông. Cần tăng cường công tác quản lý bằng mọi
hình thức và giải pháp.
Tài
liệu dẫn:
Sách đỏ Việt Nam
- phần động vật – trang 31.