New Page 1
CU LI LỚN
Nycticebus bengalensis
(Lacepede, 1800)
Loris coucang Boddaert, 1785
Nycticebus javanicus Geoffroy E., 1812
Nycticebus cinereus Milne - Edwards, 1867
Họ:
Cu li Loricidae
Bộ:
Linh trưởng Primates
Đặc điểm nhận dạng:
Đầu tròn, trên đỉnh đầu có sọc màu nâu sẫm. Mắt trố to. Xung quanh hai mắt có
vòng lông màu nâu đỏ. Từ trên đỉnh đầu có hai sọc nhỏ màu nâu nhạt chạy xuống
dưới mắt. Từ hai gốc tai có vệt lông màu nâu nhạt chạy lên đỉnh đầu và liên kết
với nhau. Dải lông màu nâu sẫm chạy dọc từ trên đỉnh đầu theo sống lưng xuống
phía dưới. Lông mịn màng, có màu vàng đỏ, cũng có thể có màu vàng nhạt hoặc màu
xám. Ngực thường có màu xám tro.
Bụng
màu hơi vàng nhạt. Hông và chân sau có màu đỏ hoe.
Kích thước cỡ nhỏ.
Dài thân: 260 - 310mm,
dài đuôi:
19 - 40mm.
Ngón tay trỏ nhỏ, ngón chân thứ hai có vuốt, các ngón khác có ống. Răng hàm thứ
nhất lớn hơn răng hàm thứ hai.
Sinh học, sinh thái:
Con đực và con cái trưởng thành sau 21 tháng. Thời gian mang thai 191 ngày.
Khoảng cách giữa các lần sinh từ 12 - 18 tháng. Cuộc sống kéo dài khoảng 20 năm.
Thức ăn chủ yếu là quả cây: 50%, các loài động vật: 30%, đặc biệt là các loài
côn trùng.
Hoạt
động về ban đêm. Ban ngày ngủ trên cây cuộn tròn, mặt cúi vào trong lòng. Chúng
thường làm tổ trên các hốc cây. Cuộc sống leo trèo. Sống đơn độc hoặc thành nhóm
3 - 4 cá thể. Khu vực sống chủ yếu là các rừng tre nứa, rừng nguyên sinh, cây
bụi, các khu vườn thứ sinh. Chúng thích các vị trí trên đỉnh núi hoặc đỉnh giông
có thể cao tới 1300m so với mực nước biển.
Phân
bố:
Trong
nước: Yên Bái (Ta Lang), Tuyên Quang (Bản Bung, Tát Kẻ), Bắc Kạn (Đình Cả, Bản
Thi, Ba Bể, Chợ Rã), Lạng Sơn (Hoa Thong), Bắc Ninh (Thăng Long), Hoà Bình (Đà
Bắc), Quảng Trị (Lao Bảo), Thừa Thiên - Huế (Bạch Mã), Gia Lai (Koncharang),
Kontum (Sa Thầy, Mom Ray).
Thế giới:
Bănglađét, Mianma,
Trung Quốc, Lào, Cămpuchia, Thái Lan, Malaixia, Inđônêxia
Giá trị:
Thú quý và cổ trong bộ linh trưởng, có vị trí đặc biệt trong nghiên cứu
tiến hóa
và thích nghi với đời sống trên cây. Mặt khác dễ nuôi, rất hấp dẫn trong các
vườn thú nên có thể nuôi nhân giống để xuất khẩu.
Tình trạng:
Trước năm 1975: Loài này còn gặp rất phổ biến ở các khu rừng từ các tỉnh phía
Bắc tới Gia Lai, Kontum trên diện tích ước tính khoảng >20.000km2.
Từ năm 1975 trở lại
đây tình trạng của loài thay đổi rõ rệt. Số lượng quần thể giảm mạnh. Số lượng
tiểu
quần thể hiện nay khoảng
30. Nguyên nhân biến đổi là do: Nơi cư trú bị xâm hại, rừng bị chặt phá, diện
tích rừng tự nhiên bị thu hẹp và đây là đối tượng săn bắt để nuôi làm cảnh, buôn
bán và xuất khẩu.
Phân
hạng:
VU A1c,d
Biện
pháp bảo vệ:
Đã được
đưa vào Sách đỏ Việt Nam 2000 và danh sách các loài cần được bảo vệ của ngành
Lâm nghiệp (Phụ lục IB Nghị định 48/2002/NĐ-CP ngày 22/4/2002 của Chính Phủ).
Cần tiến hành tốt việc thực thi pháp luật, các quy chế, nghị định của chính phủ
về công tác bảo vệ động vật hoang dã. Xây dựng các khu bảo tồn thiên nhiên và
các chương trình quản lý các loài động vật hoang dã nói chung và các loài bị đe
doạ nói riêng.
Tài
liệu dẫn:
Sách đỏ Việt Nam - phần động vật – trang 35.