DƠI CHO TAI NGẮN
DƠI CHO TAI NGẮN
Cynopterus brachyotis (Mỹller,
1838)
Pachysoma brachyotis
Mỹller, 1838
Cynopterus grandidieri
Peters, 1869
Cynopterus brachyotis hoffeti
Bourret, 1944.
Họ: Dơi quả Pteropodidae
Bộ:
Dơi Chiroptera
Đặc điểm nhận
dạng:
Tai ngắn, có viền
trắng hoặc xám, chiều dài nhỏ hơn 18mm. Bộ lông màu xám nhạt hay nâu. Lông ở các
phần: vai,
cổ và
hông của con trưởng thành màu da cam hoặc vàng tươi.
Sinh học, sinh thái:
Dơi chó tai ngắn
thường sinh sống ở nhiều kiểu
sinh cảnh khác nhau: từ rừng núi đến đồng bằng, các khu đô thị...; trú ngụ
dưới mái các công trình xây dựng, vách hang và dưới tán cây, loài dơi này có thể
bay khoảng 97 - 113km trong mỗi đêm để kiếm ăn; thức ăn của chúng là
mật hoa, quả, hạt của nhiều loài cây khác nhau. Con cái có thời kỳ mang thai
từ tháng 12 năm trước đến tháng 8 năm sau; thời gian mang thai từ 115 đến 125
ngày; có 2 thời kỳ sinh con non trong mỗi năm (từ tháng 2 đến tháng 3 và từ
tháng 6 đến tháng 8), trong mỗi năm, thời gian mang thai lần thứ hai trùng với
thời gian tiết sữa của lần thứ nhất. Khi mới sinh, con non nặng khoảng 11g; được
mẹ mang theo khoảng 45 - 50 ngày; cai sữa khi được khoảng 40 - 45 ngày. Con cái
thành thục sinh dục ở khoảng 5 - 6 tháng tuổi; con đực thành thục sinh dục ở
khoảng 15 - 20 tháng tuổi.
Phân bố:
Trong nước:
Lào Cai, Hoà Bình, Hải Dương, Hà Nội, Ninh Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên - Huế,
Quảng Nam, Khánh Hoà, Kontum, Đắk Lăk, Lâm Đồng, Ninh Thuận, Đồng Nai, thành phố
Hồ Chí Minh, Tây Ninh, Kiên Giang.
Thế giới: Ấn Độ, Nêpan,
Trung Quốc, Thái Lan, Inđônêxia, Malaixia và Philippin.
Giá trị:
Có vai
trò quan trọng trong phát tán thực vật. Phân loài C.b. hoffeti là đặc hữu
của miền Bắc Việt Nam.
Tình
trạng:
Phân bố
rộng, loài này đã và đang là đối tượng săn bắt của dân địa phương ở nhiều
khu vực nên hiện trạng của chúng đang bị suy giảm nghiêm trọng cả về số lượng và
phạm vi phân bố. Riêng phân loài
Cynopterus brachyotis hoffeti rất hiếm và không ghi nhận
được trong thời gian từ năm 1994 đến nay.
Phân hạng:
VU A1c,d B2a,e
Biện pháp bảo vệ:
Đã được đưa vào Sách đỏ Việt Nam năm 2000. Cần ngăn chặn hoạt động săn bắt và
các tác động có hại đối với loài này ở các khu vực đã ghi nhận được.
Tài
liệu trích dẫn:
Sách đỏ
Việt Nam - phần động vật – trang 31