GÀ LÔI TRẮNG
GÀ LÔI TRẮNG
Lophura nycthemera
(Linnaeus,
1758)
Phasianus
nycthemera
Linnaeus, 1758.
Họ: Trĩ Phasianidae
Bộ: Gà Galliformes
Đặc điểm nhận
dạng:
Gà lôi trắng có 5
phân loài: Trĩ bạc Lophura nycthemera nycthemera (Linnaeus, 1758); Gà lôi
trắng Lophura nycthemera beaulieuri Delacour, 1948; Gà lôi berli
Lophura nycthemera berliozi Delacour và Jabouille, 1928; Gà lôi beli
Lophura nycthemera beli (Oustalet, 1898), Gà lôi vằn lưng Lophura
nycthemera annamensis (Ogilvie Grant, 1906).
Chim đực trưởng
thành của 5 phân loài Gà lôi trắng có đặc điểm sai khác đặc trưng là càng vào
phía nam của vùng phân bố lông đuôi của chúng càng ngắn dần, màu trắng của bộ
lông cũng giảm và màu đen tăng lên. Bộ lông có vằn đen trắng xen lẫn thể hiện
rất rõ ở phân loài đặc hữu Gà lôi vằn lưng (Lophura nycthemera annamensis)
phân bố ở rừng nam Trung Bộ đến đông bắc Nam Bộ (Việt Nam). Lông đuôi của phân
loài beli (Lophura nycthemera beli) có màu trắng rõ hơn so với phân loài
berli (Lophura nycthemera berliozi) mặc dù hai phân loài này có hình thái
ngoài tương tự nhau.
Sinh học, sinh
thái:
Sinh sản của gà
lôi trắng từ cuối mùa xuân kéo dài đến cuối mùa hè. Con đực thường khoe mẽ vào
tháng 2, làm tổ và đẻ trứng vào tháng 4 - 5. Mỗi lứa đẻ 5 - 10 trứng, vỏ trưng
màu trắng ngà hay hung nhạt. Thời gian ấp 25 - 26 ngày. Cũng như các loài gà lôi
khác thức ăn của gà lôi trắng là côn trùng, giun đất, các loại hạt và quả cây
trong rừng.
Tuỳ từng phân
loài, gà lôi trắng sống đôi, đàn nhỏ 3 - 5 con hoặc nhiều hơn đến 10 con như ở
trĩ bạc. Nơi sống thích hợp của gà lôi trắng là các loại rừng thường xanh nguyên,
thứ sinh và rừng hồi phục, rừng khai thác ẩm rậm rạp, nơi có độ cao 300m trở lên
so với mặt biển. Đã gặp loài này ở độ cao trên các đỉnh núi cao 1200 - 1800m.
Ban ngày kiếm ăn trên mặt đất ban đêm bay lên trên cành cây đậu ngủ.
Phân bố:
Trong nước:
Từ Bắc bộ vào đến Nam Bộ.
Thế giới: Nam
Trung Quốc, Mianma, Thái Lan, Lào, Cămpuchia. Tùy từng phân loài, riêng các phân
loài L. n. beli và L. n. annamemsis là đặc hữu của Việt Nam
Giá trị:
Gà lôi trắng đặc
biệt là các phân loài L. n . annamensis, L. n. beli có giá trị
thẩm mỹ và đa dạng sinh học cao.
Tình trạng:
Hiện nay số lượng
cá thể của gà lôi trắng còn lại không nhiều, đặc biệt là 2 phân loài đặc hữu. Cả
5 phân loài đều bị săn bắt nhiều, bừa bãi, vùng phân bố bị huỷ hoại và thu hẹp,
số lượng cá thể trong thiên nhiên giảm sút nhanh chóng và ngày càng trở nên hiếm.
Tuy nhiên, chúng đang được phục hồi trong nhiều khu bảo tồn thiên nhiên.
Phân hạng:
LR cd.
Biện pháp bảo vệ:
Đã được đưa vào
Sách Đỏ Việt Nam (1992, 2000), Nghị định 48/NĐ-CP (2002). Cần nghiên cứu thêm về
hiện trạng và phân bố của các phân loài, đặc biệt là các phân loài đặc hữu của
Việt Nam, làm cơ sở cho việc đề xuất các giải pháp bảo vệ hữu hiệu cho Gà lôi
trắng ở Việt Nam.
Tài liệu dẫn:
Sách đỏ Việt Nam - phần động vật – trang 264.