CÁ CÓC TAM ĐẢO
CÁ CÓC TAM ĐẢO
Paramesotriton deloustali (Bourret,
1934)
Mesotriton deloustali
Bourret, 1934
Họ: Cá cóc Salamandridae
Bộ: Có đuôi Caudata
Đặc điểm nhận
dạng:
Cá cóc có thân
hình thuôn dài, hơi dẹt từ trên xuống, có đuôi dài dẹp bên, mút đuôi tròn.
Da cá cóc có nhiều mụn sù sì tiết chất nhầy. Lưng có mầu xám đen với hai gờ nổi
sần sùi chạy dọc hai bên và một gờ giữa sống lưng. Bụng mầu đỏ da cam với những
đường xám đen nối với nhau như hình mạng lưới, dài thân khoảng 153,5-185 mm.
Con cái
thường lớn hơn con đực. Hình thái bên ngoài
chúng khá giống với loài
Cá cóc quảng tây Paramesotriton guangxiensis. Đặc biệt vào mùa
sinh sản ở cá cóc đực có một dải xanh sáng chạy suốt hai bên mặt đuôi. Mép
đuôi thường đỏ da cam, nhất là phần gần hậu môn. Cá cóc có 4 chi ngắn nhưng
khỏe, bò khá nhanh trên mặt đất. Trong nước, cá cóc bơi chủ yếu bằng những uốn
lượn của đuôi, chân áp sát thân mình.
Sinh học, sinh
thái:
Chỉ sống ở suối
trên độ cao 200 - 1000m. Cá cóc là loài ăn tạp, thành phần thức ăn gồm các loài
thảo mộc, côn trùng (ấu
trùng và dạng trưởng thành), trứng ếch nhái, ốc, nòng nọc, cá con, bùn...
Cá
cóc đẻ vào cuối đông đầu xuân (tháng 1 - 4). Sự thụ tinh của Cá cóc tam đảo là
sự
thụ tinh trong không hoàn toàn diễn ra trong môi trường nước. Ngoài tự nhiên,
sau khi thụ tinh xong, cá cóc cái bò lên cạn đẻ trứng ở các đám lá mục, ẩm dưới
các tảng đá cách suối không xa. Trong điều kiện nuôi chúng đẻ vào những giá thể
có sẵn trong bể (rong, đá...). Cá cóc cái đẻ nhiều lần trong một vụ, đẻ cả ban
ngày và ban đêm, mỗi lần đẻ với số lượng trứng rất khác nhau (từ 2 - 36 quả). Tỷ
lệ nở của trứng và
sự phát triển của nòng nọc phụ thuộc chủ yếu vào nhiệt độ môi
trường, nhiệt độ thích hợp nhất từ 170C - 270C. Nòng nọc
có mầu đen, có mang ngoài mầu đỏ hồng ở hai bên mang tai, bụng sáng và sau quãng
2 tháng ngả vàng và xuất hiện những mạng lưới đen như họa tiết ở bụng con trưởng
thành. Mang ngoài tiêu dần và biến mất ở tháng 4 - 5. ở giai đoạn này cá cóc
thường bò lên cạn (trong tự nhiên giai đoạn này vẫn chưa được nghiên cứu kỹ).
Phân bố:
Trong nước:
Loài
lưỡng cư có đuôi này sống ở các suối trên dãy Tam Đảo nằm giữa 3 tỉnh: Thái Nguyên, Tuyên Quang, Vĩnh Phúc
và khu vực Ba Bể tỉnh Bắc Kạn. Theo những thông tin mới nhất hiện đã phát hiện
thêm 3
quần thể Cá cóc ở Chợ Đồn (Bắc Kạn), Sín Mần (Hà Giang) và Văn Bàn (Lào
Cai). Cần có những nghiên cứu tiếp để khẳng định sự tồn tại của những quần thể
này và những quần thể mới khác.
Thế giới: Loài đặc hữu
chỉ có ở Việt Nam.
Giá trị:
Có giá trị lớn về
mặt khoa học, thẩm mỹ và nuôi làm cảnh, du lịch.
Tình trạng:
Diện tích phân bố
<5000 km2. Cá cóc bị săn bắt nhiều nhất vào các năm 1990 - 1991, số
lượng suy giảm trên 50% trong 10 năm gân đây, hiện còn ít trong thiên nhiên.
Phân hạng:
EN B1+2b,c,d.
Biện pháp bảo vệ:
Được đưa vào Sách
Đỏ Việt Nam 1992 (tái bản 2000) ở bậc E,
Phụ
lục IB Nghị định 32/2002/NĐ-CP, bậc VU (Danh Lục Đỏ IUCN/ 2000). Vườn quốc
gia Tam Đảo được thành lập 1996 trong mục tiêu có đề cập đến bảo vệ loài đặc hữu
Cá cóc tam đảo này. Cần được bảo vệ tốt, chống săn bắt bừa bãi, nghiên cứu gây
nuôi nhân tạo.
Tài liệu dẫn:
Sách đỏ Việt Nam - phần động vật – trang 260.