Trang chủ | Tổng quan | Mẫu gỗ | Vườn quốc gia | English

Từ điển Latin-Việt

TỰ NHIÊN BÍ ẨN

THÔNG TIN MỚI

TRA CỨU ĐỘNG VẬT RỪNG VIỆT NAM

(Hơn 2350 loài thuộc các họ, bộ, nhóm khác nhau)
Cập nhật 20/11/2023

 

 

Tên Việt Nam: Cá cóc tam đảo
Tên Latin: Paramesotriton deloustali
Họ: Cá cóc Salamandridae
Bộ: Có đuôi Caudata 
Lớp (nhóm): Lưỡng cư  
       
 Hình: Nguyễn Quảng Trường  
-------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------
    CÁ CÓC TAM ĐẢO

CÁ CÓC TAM ĐẢO

Paramesotriton deloustali (Bourret, 1934)

Mesotriton deloustali Bourret, 1934

Họ: Cá cóc Salamandridae

Bộ: Có đuôi Caudata

Đặc điểm nhận dạng:

Cá cóc có thân hình thuôn dài, hơi dẹt từ trên xuống, có đuôi dài dẹp bên, mút đuôi tròn. Da cá cóc có nhiều mụn sù sì tiết chất nhầy. Lưng có mầu xám đen với hai gờ nổi sần sùi chạy dọc hai bên và một gờ giữa sống lưng. Bụng mầu đỏ da cam với những đường xám đen nối với nhau như hình mạng lưới, dài thân khoảng 153,5-185 mm. Con cái thường lớn hơn con đực. Hình thái bên ngoài chúng khá giống với loài Cá cóc quảng tây Paramesotriton guangxiensis. Đặc biệt vào mùa sinh sản ở cá cóc đực có một dải xanh sáng chạy suốt hai bên mặt đuôi. Mép đuôi thường đỏ da cam, nhất là phần gần hậu môn. Cá cóc có 4 chi ngắn nhưng khỏe, bò khá nhanh trên mặt đất. Trong nước, cá cóc bơi chủ yếu bằng những uốn lượn của đuôi, chân áp sát thân mình.

Sinh học, sinh thái:

Chỉ sống ở suối trên độ cao 200 - 1000m. Cá cóc là loài ăn tạp, thành phần thức ăn gồm các loài thảo mộc, côn trùng (ấu trùng và dạng trưởng thành), trứng ếch nhái, ốc, nòng nọc, cá con, bùn... Cá cóc đẻ vào cuối đông đầu xuân (tháng 1 - 4). Sự thụ tinh của Cá cóc tam đảo là sự thụ tinh trong không hoàn toàn diễn ra trong môi trường nước. Ngoài tự nhiên, sau khi thụ tinh xong, cá cóc cái bò lên cạn đẻ trứng ở các đám lá mục, ẩm dưới các tảng đá cách suối không xa. Trong điều kiện nuôi chúng đẻ vào những giá thể có sẵn trong bể (rong, đá...). Cá cóc cái đẻ nhiều lần trong một vụ, đẻ cả ban ngày và ban đêm, mỗi lần đẻ với số lượng trứng rất khác nhau (từ 2 - 36 quả). Tỷ lệ nở của trứng và sự phát triển của nòng nọc phụ thuộc chủ yếu vào nhiệt độ môi trường, nhiệt độ thích hợp nhất từ 170C - 270C. Nòng nọc có mầu đen, có mang ngoài mầu đỏ hồng ở hai bên mang tai, bụng sáng và sau quãng 2 tháng ngả vàng và xuất hiện những mạng lưới đen như họa tiết ở bụng con trưởng thành. Mang ngoài tiêu dần và biến mất ở tháng 4 - 5. ở giai đoạn này cá cóc thường bò lên cạn (trong tự nhiên giai đoạn này vẫn chưa được nghiên cứu kỹ).

Phân bố:

Trong nước: Loài lưỡng cư có đuôi này sống ở các suối trên dãy Tam Đảo nằm giữa 3 tỉnh: Thái Nguyên, Tuyên Quang, Vĩnh Phúc và khu vực Ba Bể tỉnh Bắc Kạn. Theo những thông tin mới nhất hiện đã phát hiện thêm 3 quần thể Cá cóc ở Chợ Đồn (Bắc Kạn), Sín Mần (Hà Giang) và Văn Bàn (Lào Cai). Cần có những nghiên cứu tiếp để khẳng định sự tồn tại của những quần thể này và những quần thể mới khác.

Thế giới: Loài đặc hữu chỉ có ở Việt Nam.

Giá trị:

Có giá trị lớn về mặt khoa học, thẩm mỹ và nuôi làm cảnh, du lịch.

Tình trạng:

Diện tích phân bố <5000 km2. Cá cóc bị săn bắt nhiều nhất vào các năm 1990 - 1991, số lượng suy giảm trên 50% trong 10 năm gân đây, hiện còn ít trong thiên nhiên.

Phân hạng: EN B1+2b,c,d.

Biện pháp bảo vệ:

Được đưa vào Sách Đỏ Việt Nam 1992 (tái bản 2000) ở bậc E, Phụ lục IB Nghị định 32/2002/NĐ-CP, bậc VU (Danh Lục Đỏ IUCN/ 2000). Vườn quốc gia Tam Đảo được thành lập 1996 trong mục tiêu có đề cập đến bảo vệ loài đặc hữu Cá cóc tam đảo này. Cần được bảo vệ tốt, chống săn bắt bừa bãi, nghiên cứu gây nuôi nhân tạo.

 

Tài liệu dẫn: Sách đỏ Việt Nam - phần động vật – trang 260.

 

 

 

Bản đồ phân bố của loài:

 

Cá cóc tam đảo

 

 

 
 

 


Giới thiệu | Tra cứu | Danh pháp | Diễn đàn | Liên hệ | Văn Bản | Trợ giúp | SVR Mobile

Mọi chi tiết xin liên hệ Admin website Sinh vật rừng Việt Nam
© Ghi rõ nguồn '
Sinh vật rừng Việt Nam' khi bạn phát hành lại thông tin từ Website này