RẮN HỔ MANG FUXI
RẮN
HỔ MANG FUXI
Naja fuxi
Shi et al., 2022
Naja kaouthia
Zhao, 2003
Naja atra
Lin et al.,
2012
Họ: Rắn hổ Elapidae
Bộ: Có vảy Squamata
Đặc điểm nhận
dạng:
Con đực. Đầu lớn,
hình tam giác, rộng nhất ở giữa chẩm. Chiều dài từ mút mõm đến lỗ huyệt 800 mm,
dài đuôi 135 mm. Dài đầu 30.3 mm. Rộng đầu 19.8 mm. Cao dầu 12.8 mm. Gian mắt
14.2 mm. Vảy bụng 190. Vảy trước bụng 2. Vảy dưới đuôi 50, phân chia, có mấu gai
ở cuối. Vảy lưng mịn, 20 - 20 - 15 hàng. Vảy lưng thon dài, rộng về hướng bụng.
Vảy xương sống giống vảy lưng. Vảy đầu mịn. Vảy mõm có hình gần chữ U, dễ thấy
từ trên xuống. Các vảy mũi lớn, gao gồm một vảy trước mũi và một vảy sau mũi. Lỗ
mũi được bao quanh bởi các vảy sau mũi. Vảy trước mắt 1/1, được bao quanh bởi
vảy môi trên, vảy trên mắt, vảy trước trán, vảy gian mũi, phải sau mũi và chạm
mắt. Không có vảy má. Vảy gian mũi phân chia, nối với nhau. Vảy trước trán phân
chia thành hình thang thẳng, nối rộng với nhau. Vảy rrans hình khiên, kích thước
bằng vảy trước trán. Vảy chẩm phân chia, lớn, mỗi cái được bao quanh bởi vảy
trán, vảy trên mắt, vảy trên sau mắt, phải trước và sau thái dương, hai vảy nhỏ
ở mặt trên của đầu. Mắt tròn, đường kính bằng chiều cao của vảy môi trên thứ tư.
Vảy sau mắt 3/3. Vảy thái dương 2+3/2+3. Vảy môi trên 7/7, trong đó hai vảy đầu
tiên nhỏ nhất, bao quanh các vảy mũi, vảy thứ ba và bốn cao hơn rộng, bao quanh
mắt, vảy thứ bảy dài nhất. Vảy cằm hình tam giác khi nhìn phía trước và từ mặt
bụng của đầu nhìn lên. Vảy môi dưới 9/9, trong đó vảy thứ nhất đến thứ ba nối
với các tấm vảy cằm phía trước, vảy đầu tiên nối với nhau và méo trước của tấm
vảy cằm phía trước, vảy thứ tư nối với cả tấm vảy trước và sau cằm, vảy thứ năm
nhỏ và kém phát triển, khí nhìn thấy từ mặt dưới của đầu, vảy thứ sau nối với
các tấm vảy cằm phía sau, vảy thứ bảy đến thứ chín thon dài, không nối với tấm
vảy cằm. Hai cặp tấm vảy cằm hình thành dạng con bướm. Tất cả ba vảy tách biệt
tấm vảy cằm phía sau, xếp thành hình chữ ‘Λ”.
Màu trong trạng
thái tiêu bản:
Mặt lưng của đầu màu nâu sáng. Mặt bên của đầu màu nhạt hơn ở các vảy môi trên.
Mặt bụng của đầu màu trắng kem. Lưng màu nâu sáng, có sáu vằn ngang ở giữa đến
phần thân phía sau, chiều rộng của vằn bằng độ dài một vảy lưng, có viền đen
nhạt, không rẽ đôi gần các vảy bụng. Có một vệt đơn màu đâu có viền sẫm và lõi
bầu dục sẫm trên mang bành, không chạm các vảy bụng. Da kẻ vảy màu sáng hơn vảy
lưng. Mặt lưng của đuôi màu nâu sáng, có bốn vằn giống trên thân. Họng màu nhạt.
Các vảy bụng thứ nhất đến thứ 13 màu trắng kem. Vằn bụng thứ nhất phủ lên các
vảy bụng thứ 14 đến thứ 19, màu nâu nhạt. Vảy bụng thứ 19 màu nhạt hơn. Một vệt
thâm nhỏ trên mặt bụng bên của cổ ở mép bên của vảy bụng thứ 9 đến 10 và theo
sau là màu nâu nhạt đều, ngoại trừ một số vảy bụng nhảy hơn ở vị trí đối nghịch
với vằn trên lưng. Màu ở giữa và sau bụng tương tự màu trên vằn ngang rộng đầu
tiên. Hai vệt thâm nhỏ trên da giữa mép bên của vảy thứ tám và chín, với hàng
đầu tiên của vảy lưng. Mặt bụng của đuôi nhạt đồng đều.
Màu sắc trong tự
nhiên:
Tương tự màu tiêu bản, nói chung màu nâu đậm hơn Răng nanh cứng, ngắn, không tới
vảy môi trên thứ ba, không có cơ chế để phun nọc độc. Lỗ truyền nọc độc lớn và
thon dài. Cơ quan bán sinh dục của con đực có hai thuỳ, được phủ đầy gai nhỏ.
Gai thưa hơn và nhỏ hơn ở phần gần trong, lớn hơn và rậm hơn ở phần rìa ngoài.
Các gai trên rìa ngoài kết nối chắc ở đáy, hình thành nếp đài. Hai cặp nếp mặt
bên yếu ở thân nhìn từ rãnh, được phủ đầy gai. Các thuỳ dưới nằm ở ba phần tư
thân cơ quan. Những thuỳ phía trên chiếm một phần tư và chạm đáy. Một vết thắt
ngang chia các thuỳ từ góc nhìn rãnh. Hai cặp nếp dọc ở trên và dưới chỗ thắt
thuỳ. Các nếp dọc trên chạm giữa các thuỳ và hội tụ gần chỗ thắt. Các nếp dọc
dưới song song và ngắn, nằm ở ba phần tư thân cơ quan. Rãnh đan chéo, xoắn ốc
đến đỉnh, chót rãnh không rõ khi nhìn từ rãnh. Môi rãnh phát triển, có gai rậm.
Cơ quan bán sinh dục chạm tới vảy dưới đuôi thứ 11 khi không cương cứng, nó sẽ
chạm tới vảy dưới đuôi thứ 23 khi cương cứng
Rắn hổ mang fuxi
- Naja fuxi khác các loài cùng Giống Naja bởi những đặc điểm sau:
Khác với loài
Naja kaouthia bởi vằn ngang đơn, đều và hẹp xuất hiện ở giữa và phần sau của
lưng và mặt lưng của đuôi ở cả con non lẫn trưởng thành, màu nâu da bò với viền
tối ở các mép (so với quần thể ở Nam Á và Đông Nam Á không có vằn ngang hoặc vằn
không đều hoặc vằn màu sáng đa dạng hoặc đường thêu dày). Số lượng vảy nhỏ giữa
tấm vảy cằm phía sau thường là 3 hoặc 2, hiếm khi 4 hoặc 1 (so với hầu hết là 1
hiếm khi 2) . Vảy bụng 179 - 205 (so với 179 - 199 ở quần thể Nam Á và 168 - 186
ở quần thể Đông Nam Á)
Khác với loài
Naja atra bởi vảy bụng 179 - 205 (so với 161 - 175). Số lượng vảy nhỏ giữa tấm
vảy cằm phía sau thường là 3 hoặc 2, hiếm khi 4 hoặc 1 (so với 1 hiếm khi 2).
Lưng của cá thể trưởng thành màu nâu sáng, có vằn ngang trên thân và đuôi kèm
viền tối (so với màu lưng sẫm, vằn ngang nhạt, không có viền nổi bật). Vành
khuyên trên mang hình bầu dục màu nhạt có viền trong và ngoài hẹp sẫm, một số cá
thể có hoa văn đồng nhất của một vòng đơn, còn lại mờ không có đốm mặt sẫm (so
với vành khuyên trên mang hình trái tim nhạt, có một trung tâm sẫm nhàu và hai
đốm thâm nhỏ bên). Cơ quan bán sinh dục có gai phần ngoài gắn chặt với đáy, hình
thành nếp đày (so với các gai ở phần ngoài gắn yếu với đáy, xếp thành hàng)
Khác với loài
Naja naja vành khuyên trên mang bành hình thành vòng hoàn thiện (so với hình
mắt kính). Hoa văn họng rõ, đốm bên thân lấn lên hàng vảy lưng dưới cùng (so với
hoa văn mờ, đốm bên thân lấn lên hàng vảy lưng thứ hai). Vằn ngang đơn, đều và
hẹp xuất hiện ở giữa và phần sau của lưng và mặt lưng của đuôi ở cả con non lẫn
trưởng thành, màu nâu da bò với viền tối ở các mép (so với không có vằn sáng đều
trên thân, có một vài đường dệt dày đặc màu vàng và nâu trên thân).
Sinh học, sinh
thái:
Sống ở các khu
rừng thường xanh núi cao từ 1.000 đến 1.400 m, nơi có nhiệt độ trung bình thấp và
sương mù. Thức ăn là các loài lưỡng cư, bò sát, thú ăn thịt nhỏ, thú gặm nhấm
trong khu vực phân bố. Các dữ liệu về sinh sản chưa được ghi nhận. Loài mới phát
hiện năm 2022. Loài mới này được đặt theo tên Fuxi, một trong những tổ tiên của
loài người trong thần thoại Trung Quốc, thường được miêu tả trong các di tích
văn hóa là nửa người nửa rắn. Các tư thế phổ biến của Fuxi giống như một con rắn
hổ mang trong trạng thái được nuôi dưỡng; loài này được đặt tên theo tác động
của loài rắn đối với văn hóa con người. Danh pháp cụ thể là một danh từ trong sự
bổ ngữ.
Phân bố:
Trong nước: Các
vùng núi cao ở Tây Bắc Việt Nam
Nước ngoài: Tây
Nam Trung Quốc (Tỉnh Tứ Xuyên, có thể là Tây Quảng Tây, Tây Nam Quý Châu), Đông
Bắc Myanmar, Bắc Lào, Bắc Thái Lan.
Mô tả
loài:
Nguyễn Quảng Trường, Phùng Mỹ Trung, Nguyễn Thiên Tạo, Phạm Thế Cường -
WebAdmin.