SA MỘC DẦU
SA MỘC DẦU
Cunninghamia konishii
Hayata, 1908
Cunninghamia kawakami
Hayata, 1915
Cunninghamia lanceolata
(Lamb.) Hook. var. konishii (Hayata) Fujita, 1932
Cunninghamia lanceolata
auct. non (Lamb.) Hook.: P. K. Loc, 1984
Họ: Bụt mọc Taxodiaceae
Bộ:
Hoàng
đàn
Cupressales
Đặc điểm nhận dạng:
Cây gỗ to, thường xanh, có thể cao
đến 35 - 40 m hay hơn nữa với đường kính thân đến hơn 1,5 m, tán lá hình tháp.
Lá mọc xoắn ốc rất xít nhau, gốc vặn, do đó ít nhiều xếp thành 2 dãy, hình dải,
dài 1,1 - 1,9 cm, rộng 0,20 - 0,25 cm, thót ngắn thành mũi tù và không cứng, mép
hơi răng cưa, mặt dưới có hai dải lỗ khí. Cây cùng gốc. Nón đực mọc thành cụm ở
nách lá gần đầu cành. Nón cái đơn độc hoặc cụm 2 - 3, khi trưởng thành dài 2,4
- 2,8 cm, rộng 2,0 - 2,6 cm. Vẩy nón cái hình tam giác rộng, có mũi nhọn ở đầu,
có răng cưa ở hai mép và hai tai tròn ở giữa, mang 3 hạt trong mỗi vẩy. Hạt có
cánh bên khá rộng, dài 5 mm, rộng 4 mm.
Sinh học, sinh thái:
Nón xuất hiện tháng 9, hạt trưởng
thành vào tháng 3 - 5 năm sau. Cây tái sinh bằng hạt bình thường với nhiều cây
có tuổi rất khác nhau, kể từ cây mạ trở lên. Mọc cùng với Pơmu
Fokienia
hodginsii tạo thành tầng nhô trong rừng
trên sườn dông, trong khi tầng ưu thế sinh thái gồm các loài cây lá rộng
thường xanh chủ yếu thuộc Họ Dẻ Fagaceae, ở độ cao 1.200 - 1.600 m.
Phân bố:
Trong nước: Nghệ An (Quế Phong: Hạch Dịch, Mường
Đán, núi Pù Hoạt; Quì Hợp: Pù Huống, núi Pha Ca Tủn; Con Cuông: Pù Mát), theo dự
đoán chắc chắn còn gặp ở một số vùng núi khác của tây Thanh Hoá và tây bắc Nghệ
An.
Nước ngoài: Có khu phân bố gián đoạn: Đài Loan,
Trung Quốc (Phúc Kiến) và Lào (Hủa Phăn) và được mở rộng từ Hủa Phăn của Bắc Lào
sang đến phần tả ngạn sông Cả của Việt Nam.
Giá trị:
Nguồn gen quí và độc đáo của Việt
Nam. Loài thuộc yếu tố Đông á. Gỗ nhẹ, thớ mịn và có mùi thơm, dễ thao tác và
bền, có giá trị sử dụng lớn để đóng đồ dùng cho gia đình, làm nhà, làm cột điện,
đóng thuyền v.v. Từ vỏ cây tiết ra nhiều nhựa dầu dùng làm thuốc, để gắn hoặc có
một số công dụng riêng.
Tình trạng:
Loài này đã được dân địa phương khai
thác từ lâu, hiện tại chỉ còn sót lại tại những nơi hiểm trở, xa dân cư. Tuy nằm
trong Vườn quốc gia Pù Mát nhưng nếu không bảo vệ tốt sẽ dẫn tới việc giảm số
lượng và tình trạng bị tuyệt chủng tăng lên.
Phân hạng: VU
A1a,d,C1
Biện pháp bảo vệ:
Loài đã được ghi trong
Sách Đỏ Việt Nam (1996) với cấp đánh giá
“hiếm” (Bậc R) và Danh mục Thực vật rừng, Động
vật rừng nguy cấp, quý hiếm (nhóm 2) của Nghị định số 32/2006/NĐ - CP ngày
30/3/2006 của Chính phủ để hạn chế khai thác, sử dụng vì mục đích thương
mại. Cần bảo vệ tại Vườn quốc gia Pù Mát, đặc biệt là các núi Pù Hoạt,
Pha Cà Tủn, Nghiên cứu trồng nhằm bảo tồn nguồn gen và phục hồi rừng tại những
nơi có điều kiện sinh thái thích hợp, nhất là tại các khu bảo tồn thiên nhiên và
vườn quốc gia.
Tài liệu dẫn: Sách
đỏ Việt Nam 2007 - phần thực vật
- trang
510.