NỬ LANG
NỮ LANG
Valeriana
hardwickii Wall. in Roxb. 1820.
Valeriana hardwickii
Wall.
var. arnottiana Wight. 1846;
Valeriana
hardwickii
Wall. var. hoffmeisteri Klotzch in Reis. 1862;
Valeriana rosthornii
Graebn.
1901.
Họ: Nữ lang Valerianaceae
Bộ: Tục đoạn Dipsacales
Đặc điểm nhận dạng:
Cỏ, thường sống 1 năm,
cao 50 - 100 cm. Thân thẳng, rỗng, có gân dọc, phần sát gốc thường có ít lông
thô. Lá ở gốc thường xẻ thuỳ lông chim, gồm 5 - 7 thuỳ; thuỳ đỉnh thường to hơn,
dạng mác hay hình trứng, nhọn đầu, 3,5 - 7 x 1,5 - 3 cm. Các thuỳ bên nhỏ hơn.
Cuống lá có gốc dạng bẹ. Lá ở phần ngọn nhỏ dần, số thuỳ lông chim ít, cuống
ngắn. Toàn bộ bề mặt của lá có lông ngắn. Cụm hoa xim, dạng ngù, mọc ở ngọn và
đầu cành. Lá bắc hình tam giác nhỏ. Hoa màu trắng, hình loa kèn, dài 1,5 - 2,5
mm. Nhị cực ngắn, đính ở ống tràng; vòi nhuỵ thò ra ngoài. Quả bế, nhỏ, dẹt, dài
1,8 - 2mm; mặt lồi có 3 đường gờ, mặt kia chỉ có 1. Đài tồn tại, phát triển
thành 10 tua lông chim, dài 4 - 5 mm. Toàn cây khi khô có mùi hôi rất khó chịu.
Sinh học, sinh thái:
Mùa hoa tháng 6 - 7,
quả tháng 7 - 10. Sau khi quả già, cây tàn lụi vào mùa đông. Hạt sẽ nảy mầm vào
tháng 3 - 4 năm sau. Cây ưa ẩm, ưa sáng hay hơi chịu bóng; thường mọc rải rác
hay thành đám nhỏ gồm nhiều cây, trên đất ẩm, nhiều mùn ở ven rừng núi đá vôi,
nương rẫy hay ven đường đi, ở độ cao từ 1500 - 1800 m.
Phân bố:
Trong nước: Lai Châu,
Lào Cai (Sapa), Hà Giang (Đồng Văn, Mèo Vạc), Quảng Nam (Trà My: Ngọc Linh),
Kontum (Đắk Tô: Ngọc Linh), Lâm Đồng (Đà Lạt).
Nước ngoài: Ấn Độ, Trung
Quốc, Mianma, Malaixia, Indonesia.
Giá trị:
Cả cây dùng làm thuốc
về bệnh tim, chống co thắt, an thần.
Tình trạng:
Phân bố rải rác, với
số lượng quần thể ít, dễ bị tàn phá trong quá trình canh tác nương rẫy. Diện
tích các điểm phân bố ước tính dưới 2.000 km2.
Phân hạng: VU
B1+2b,c
Biện pháp bảo vệ:
Loài đã được ghi trong
Sách Đỏ Việt Nam (1996) với cấp đánh giá "hiếm" (Bậc R). Không nên khai thác cây
mọc tự nhiên để làm thuốc, do trữ lượng không đáng kể. Trồng dễ dàng bằng hạt,
sau gần 1 năm thu hoạch. Hiện đang được nghiên cứu bảo tồn tại vườn Trại thuốc
Sapa (Viện Dược liệu) và vườn Trại Trà Linh, huyện Trà My (Quảng Nam).
Tài liệu dẫn:
Sách đỏ Việt Nam năm 2007 - phần thực vật
- trang 354.