MÃ HỒ
MÃ HỒ NÊ PAN
Mahonia nepalensis
DC. 1821
Mahonia annamica
Gagnep.
1908;
Berberis nepalensis
Spreng.
1825.
Họ: Hoàng mộc Berberidaceae
Bộ:
Mao lương Ranunculales
Đặc điểm nhận dạng:
Cây bụi hoặc cây gỗ
nhỏ, cao 1,5 - 3m. Đường kính thân 2 - 7cm; vỏ có lớp bần dày, màu trắng xám; gỗ
thân và rễ có màu vàng; cây có thể phân nhánh.
Lá kép lông chim lẻ, dài 20 - 40 cm; lá chét mỗi bên từ 3
- 7 cái, gần như không
cuống, hình bầu dục hoặc hơi thuôn, cỡ 3,5 - 7 x 2,5
- 4 cm, gốc hơi hình tim hoặc
cụt, đỉnh nhọn hoắt thành gai; phiến lá dày, cứng, mép khía 3
- 5 răng cưa to,
nhọn sắc; 3 gân chính, gân phụ nổi rõ cả 2 mặt. Cụm hoa 1
- 5, hình bông, phân
nhánh, mọc thẳng ở ngọn. Hoa nhiều, màu vàng; lá bắc hình bầu dục, tù. Đài 9,
xếp thành 3 vòng. Cánh hoa 6 hình mác tù, có 2 tuyến ở gốc. Nhị 6, mọc đối với
cánh hoa, bao phấn dài bằng nửa chỉ nhị. Bầu hình trụ, phình ở giữa.
Quả hạch, màu xanh lơ, gần hình cầu, đường kính 6
- 7mm, đầu quả có núm nhỏ do
đầu nhuỵ tồn tại. Hạt 1, màu nâu đen, dài khoảng 3mm.
Sinh học và sinh thái:
Mùa hoa tháng 2 - 4, quả
tháng 4 - 6. Cây ra hoa kết quả nhiều. Nhân giống tự nhiên bằng hạt; có khả năng
tái sinh sau khi bị chặt phát. Cây ưa ẩm, chịu bóng lúc nhỏ, sau ưa sáng; thích
nghi với vùng có khí hậu ôn hoà (Đà Lạt và Langbian). Thường mọc rải rác ở ven
rừng hay dưới tán rừng kín thường xanh ẩm, ở độ cao 1.700
- 1.900 m.
Phân bố:
Trong nước: Lai Châu,
Lào Cai, Hà Giang, Cao Bằng, Bắc Kạn (Ngân Sơn), Lâm Đồng (núi Langbian).
Thế giới: Nêpan, Trung
Quốc.
Giá trị:
Là nguồn gen quý hiếm
đối với Việt Nam. Thân và rễ có berberin (khoảng 2%), dùng làm thuốc chữa
tiêu
chảy, kiết lỵ, rối loạn tiêu hoá.
Tình trạng:
Loài cây có vùng phân
bố hẹp. Hiện chỉ biết chắc chắn ở một điểm phân bố là núi Langbian, với số lượng
cá thể không nhiều, có thể bị xâm hại, do nằm trong vùng rừng núi phục vụ cho du
lịch sinh thái.
Phân hạng:
EN
A1c,d
Biện pháp bảo vệ:
Loài đã được ghi trong
Sách Đỏ Việt Nam (1996) với cấp đánh giá "sẽ nguy cấp" (Bậc
V). Cần bảo vệ triệt để những cá thể hiện có tại Lang Bian. Mở rộng điều tra
sang vùng phụ cận (Vườn quốc gia Bidoup - Núi Bà) nhằm phát hiện thêm điểm phân bố. Hiện đã được
thu thập về trồng tại vườn của Trung tâm cây thuốc Đà Lạt (Viện
dược liệu), với
mục đích bảo tồn ngoại vi (Ex situ). Cây sinh trưởng phát triển tốt.
Tài liệu dẫn:
Sách đỏ Việt Nam năm 2007 – Phần
thực vật – Trang 131.