CÂY ÁO CỘC
CÂY ÁO CỘC
Liriodendron chinense
(Hemsl.) Sarg., 1903
Liriodendron
tulipiferum
var. chinense
Hemsl., 1886
Họ:
Ngọc lan Magnoliaceae
Bộ:
Ngọc lan Magnoliales
Đặc điểm nhận
dạng:
Cây gỗ lớn, cao
15 - 25 m, một số cây có chiều cao đến 40 m, đường kính 50 - 90 cm. Cành non
không có lông. Lá cỡ 10 - 18 x 12 - 20 cm,
phiến lá hình áo cộc, cụt ngang ở đỉnh và
gốc gần tròn hay hơi hình tim, nhẵn; mép lá lõm hoặc xẻ thuỳ; gân bên 6 - 8 đôi,
tận mép;
cuống lá dài 5 - 15 cm; lá kèm to, dài 3 -
4 cm, đính ở gần gốc cuống. Hoa dài 4 - 5 cm, mọc đơn độc ở đỉnh cành; cuống hoa
dài 1 cm. Mảnh bao hoa 9, , hình thuôn, tù, dài 4 cm, rộng 1 - 1,5 cm, 3 chiếc
ngoài màu lục, những chiếc phía trong hơi lớn hơn, màu vàng với gốc tía. Nhị
nhiều;
chỉ nhị dài 12 mm; bao phấn hình đường, dài
15 mm, không có phần phụ ở đỉnh. Lá noãn rất nhiều, dài 2,3 cm, xếp lợp lên nhau.
Quả dài tới 8 - 9 cm; phân quả (lá noãn chính) dài 3 cm, có cánh. Hạt 1, hiếm
khi 2.
Sinh học, sinh
thái:
Mọc rải rác trong
rừng rậm nhiệt đới thường xanh mưa mùa ẩm, ở thung lũng, khe suối hay chân núi,
ở độ cao 1.500 - 1.900m.
Phân bố:
Trong nước: Lào
Cai (Sapa: Mông Xến, Bản Khoang, Tà Phìn), Điện Biên (Tủa Chùa), Sơn La (Bắc Yên).
Nước ngoài: Trung
Quốc (Vân Nam, Quảng Tây).
Giá trị:
Gỗ dùng trong xây
dựng, đóng đồ gia dụng khá tốt. Vỏ dùng làm thuốc trừ phong thấp.
Tình trạng:
Ở Việt Nam mới
chỉ gặp tại các điểm Mông Xến (Lào Cai) và Tủa Chùa (Điện Biên) với số lượng cá
thể rất ít. Rừng ở các điểm trên đều đã bị chặt phá nhiều. Bản thân loài cũng bị
khai thác lấy gỗ. Mới đây chúng tôi đã phát hiện một
quần thể khá lớn ở Tà Phìn và Bản Khoang.
Phân hạng:
VU A1c,d, B1+2b,e.
Biện pháp bảo vệ:
Loài đã được ghi trong Sách Đỏ Việt Nam (1996) với cấp đánh giá
"bị
đe doạ" (Bậc T). Không chặt đốn những cây trưởng thành còn sót lại ở
các điểm phân bố trên.
Tài liệu dẫn:
Sách đỏ Việt Nam 2007 - phần thực vật - trang 269.