MÃ ĐẬU LINH QUẢNG TÂY
MÃ ĐẬU LINH QUẢNG TÂY
Aristolochia kwangsiensis
Chun & How ex Liang, 1975
Isotrema
kwangsiense
(Chun & F.C.How ex C.F.Liang) Zhu, S.Liao & Ma, 2019
Họ:
Mộc hương Aristolochiaceae
Bộ: Mộc hương Aristolochiales
Đặc
điểm nhận dạng:
Cây
sống nhiều năm,
thân leo hoá gỗ, có rễ củ to. Thân non và
lá non có nhiều lông. Lá già chỉ có lông ở mặt dưới và ở gân mặt trên. Phiến lá
dạng trứng tròn: 23 - 34 x 22 - 32 cm; chóp lá tù, gốc lõm dạng tim; có 5 đôi
gân bên gần đối xứng nhau; gân mạng nổi rõ ở mặt dưới lá. Cụm hoa có 1 - 2 hoa ở
nách lá. Hoa có cuống; cả cuống và
bao hoa cong hình chữ "S"; ống bao hoa xanh
nhạt, dài đến 7,5 cm, phần lớn nhất ở chỗ cong có đường kính khoảng 1,4 cm; các
thuỳ của ống hình tam giác, mặt tím hồng, mặt trên có các gai nổi màu hồng đậm;
họng ống tròn, màu vàng. Nhị 6. Bầu 6 ô; vòi nhuỵ 6. Quả màu nâu vàng, gần hình
trụ tròn, dài 8 - 10 cm, có 6 cạnh lồi, đỉnh có đuôi dài khoảng 3 mm. Hạt hình
trứng, màu nâu, cỡ 5 x 4 mm, mặt hơi lõm.
Sinh học, sinh thái:
Ra
hoa vào tháng 5, mùa quả tháng 6 - 9. Cây
tái sinh chồi ở thân vào mùa xuân. Chưa rõ
khả năng trồng bằng hạt. Cây ưa sáng và có thể chịu bóng; mọc rải rác trên đất
lẫn đá, ở rừng thứ sinh, thưa, ở độ cao tới 1.000 m.
Phân bố:
Trong nước: Hà Giang (Mèo Vạc), Cao Bằng (Thạch An), Lạng Sơn (Cao Lộc, Đồng
Đăng), Hải Phòng (Cát Bà).
Nước ngoài: Trung Quốc.
Giá
trị:
Loài quý, hiếm, rễ củ làm thuốc chữa đau bụng thổ tả, đau xương, đau gân, bệnh
về gan, mật.
Tình trạng:
Loài đã từng bị khai thác lấy nguyên liệu làm thuốc. Trong các điểm phân bố
trước đây, tại Thạch An (Cao Bằng) nay không còn tìm lại được. Khu phân bố chia
cắt xa nhau, bị tàn phá nghiêm trọng.
Phân hạng:
EN A1c,d
Biện pháp bảo vệ:
Loài đã
được ghi trong Sách Đỏ Việt Nam (1996) với cấp đánh giá "sẽ nguy cấp" (Bậc
V). Cần có kế hoạch điều tra, xác định điểm phân bố còn sót lại để
bảo vệ. Đồng thời đưa về trồng, nghiên cứu nhân giống để phát triển.