SỮA
SỮA
Alstonia scholaris
(L.) R. Br., 1810
Echites scholaris
L., 1767
Nerium septaparna
Jones, 1795
Pala scholaris
(L.) Roberty, 1953
Họ:
Trúc đào Apocynaceae
Bộ: Long đởm Gentianales
Đặc điểm nhận
dạng:
Cây gỗ lớn, cao
tới 25 - 30m hoặc hơn, thân thẳng tròn, gốc đôi khi có khía sâu. Vỏ nứt dọc mủn,
có nhựa mụ trắng, thịt vỏ trắng. Cành lá mọc vòng, thường xếp thành tầng, thưa,
gẫy khúc. Lá đơn nguyên,
lá mọc vòng 5 - 8 chiếc, lá hình trứng ngược, dài 10 - 25 cm, rộng 4
- 7 cm đầu tù hoặc hơi lõm, đuôi nêm. Gân nổi rõ song song xếp sát nhau, vấn hợp
ở mép, cuống lá ngắn, rụng về tối. Cụm hoa rạng sinh tán. Hoa nhỏ, màu vàng nhạt,
mùi khơm hắc khó chịu. Hoa mẫu 5. Cánh tràng dạng ống dài trên có 5 thùy và có
vòng lông ở họng. Nhị 5, đình ở ống tràng. Bầu hai noãn rời. Cỏ 2 đại, dài 25 -
30 cm, thõng xuống. Hạt nhiều, nhỏ, dẹp, dài 70mm, rộng 2,5mm, mang 2 túm lông ở
hai đầu, màu trắng
Sinh học, sinh thái:
Lá loài cây phổ
biến khắp Việt Nam. ưa sáng sinh trưởng nhanh, chịu được mọi hoàn cảnh sống. Ra
hoa tháng 8 - 9. Quả chín tháng 1 - 2
Phân bố:
Trong nước: cây
phân bố rải rác ở ven rừng và những nơi ẩm như ven sông, ven suối. Khả năng phát
tán hạt lớn,
tái sinh chồi mạnh.
Nước ngoài:
Bangladesh, Quần đảo Bismarck, Borneo, Campuchia, Trung Quốc, Ấn Độ, Jawa, Đảo
Laccadive, Lào, Đảo Sunda Nhỏ, Malaya, Maluku, Myanmar, Nepal, New Guinea, Đảo
Nicobar, Pakistan, Philippines, Queensland, Quần đảo Solomon, Sri Lanka,
Sulawesi, Sumatera, Thái Lan
Công dụng:
Gỗ màu trắng mềm,
nhẹ, thớ gỗ mịn tỷ trọng 0,360 - 0,510. Lực nén song song 409 - 413kg/cm2,
lực uốn tĩnh 13 - 21kg/cm2, lực tách ngang 10 - 12kg/cm2,
oằn 945kg/cm2, hệ số co rút 0,17 - 0,35. Gỗ có thể làm gỗ dán, và các
đồ dùng thông thường. Vỏ dùng làm thuốc chữa sốt, lỵ hoặc ỉa chảy và dùng làm
thuốc bổ thay vỏ Canhkina. Có thể trồng làm cảnh, trồng ven đường phố làm bóng
mát. Gỗ hiện được ưa chuộng trên thị trường nước ngoài, hiện đang là mặt hàng
xuất khẩu tốt. Cần được xủ lý (tẩm, sấy) ngay sau khi xẻ vì dễ bị mốc.
Tài liệu dẫn:
Cây gỗ kinh tế - Trần Hợp, Nguyễn Bội Quỳnh - trang 49.