TRA CỨU VÀ NHẬN BIẾT HỌ CÔN TRÙNG
|
|
Tra cứu họ côn trùng: |
|
|
Cánh cứng |
Loài khác |
|
|
|
|
Bướm phấn Pieridae |
|
|
|
|
Họ này phần lớn là những loài có màu sắc trắng và vàng với các vệt sậm màu hơn (đen, đỏ…) trên cánh. Bướm không khi nào có đuôi và hầu hết có kích thước nhỏ và vừa. Loài Pierid lớn nhất ở Cúc Phương là loài đặc biệt “Great orange tip” Hebomoia glaucippe. Bướm thường tụ tập ở đường đi hoặc tại các vũng nước nhỏ. Họ này gồm một số những loài thông thường nhất ở Vườn Quốc Gia, như loài Graa Yellows Eurema (Một số loài được phân biệt bởi màu đen được trải rộng bởi màu đen ở trên cánh). Nhiều loài trong họ này bay khá nhanh. Ở các thành phố lớn, ít khi gặp với số lượng lớn, thường chỉ thấy vài con bay từ bông hoa này sang bông hoa khác để hút mật hoa, hoặc thấy bướm cái bay chậm gần cây chủ để đẻ trứng. Với những loài có tập tính di cư như giống Catosilia, có thể gặp hàng đàn bay từ cây chủ này sang cây chủ khác (giống Cassia, họ Đậu Fabaceae). Trong rừng có thể gặp một số loài với số lượng rất lớn và theo mùa như các giống Appias, Cepora…Các loài bướm phấn chủ yếu đẻ trứng trên những loại cây thuộc họ Cáp (Capparacea) họ đậu (Fabaceae); giống Delias đẻ trứng trên họ tầm gửi (Loranthaceae). Trứng dạng dài, hơi nhọn ở đầu, thường được đẻ ở dưới mặt trên lá, đỉnh |
|
cành non. Giống Delias đẻ trứng thành đám. Ấu trùng dạng dài thon, có những lông ngắn hoặc mụn trên thân. Nhộng có dây tơ, thường đeo lên mặt dưới cành hoặc lá của cây chủ, đôi khi sâu tuổi cuối cũng bò sang một cây khác gần đó để hóa nhộng. Việt Nam có khoảng 60 loài. |
|
|
Bướm ngọc Acraeidae |
|
|
|
|
Đây là một họ bướm nhỏ (chỉ có hai loài ở Việt Nam được công bố). Họ Acraeids có cánh dài và trong, màu vàng cam và màu đen. Giống như họ bướm giáp - Nymphalidae Các loài thuộc họ này đều có một đặc điểm chung nổi bật nhất là sự thoái hoá của chân trước khiến cho hai chân trước của họ này hoàn toàn không có khả năng di chuyển |
|
|
|
Bướm mỏ dài Lybytheidae |
|
|
|
|
Là một họ bướm nhỏ khác có vài loài ở Việt Nam. Tất cả các loài cánh có hình dạng đặc biệt, cánh trước dạng liền với đỉnh cụt. Cánh sau có một điểm trang trí kiểu vỏ sò. Họ Libytheidae được biết đến như những con bướm có vòi, bởi chúng có một mấu sờ dài ra ở phía trước đầu tạo thành một cái “vòi” vì thế chúng có tên tiếng anh chung là Snout Butterfly (bướm mỏ dài). Giống đực có những chân trước vô chức năng không hoàn hảo, trong khi giống cái lại có chân trước hoàn hảo. Các loài trong giống này xuất hiện theo mùa. Ở phía nam chỉ xuất hiện với số lượng lớn vào cuối mùa khô đầu mùa mưa, khoảng từ tháng ba đến tháng năm, thời gian còn lại trong năm hầu như không thấy. Các loài trong họ này bay rất nhanh, thấp, đường bay đổi liên tục, khó quan sát. Mặt dưới cánh phần lớn có màu sậm, loang lổ, phù hợp với tập tính hay đậu trên mặt đất và xếp cánh, giúp chúng ngụy trang tốt. Sâu của bướm mỏ dài ăn lá cây họ Sếu (Ulmaceae), đặc biệt là giống cây Celtis. Con đực của loài L.geoffroyi dễ nhận diện khi bay do mặt trên cánh có màu tím. Đây là một họ có ít loài, trên toàn thế giới chỉ có 13 loài, Việt Nam có bốn loài. |
|
|
Bướm ngao Riodinidae |
|
|
|
|
Họ Riodinidae là những con bướm trông thanh mảnh, chúng có thể bị nhầm với họ Lycaenidae. Tuy nhiên, hầu hết họ Riodinids chủ yếu là mầu nâu và trắng. Giống như những con bướm mỏ dài, chân trước không hoàn hảo ở những con bướm đực nhưng hoàn hảo ở con cái. Loài Riodinid thông thường nhất Zemeros flegyas, được tìm thấy ở bìa rừng và những môi trường sống thoáng đãng trong suốt cả năm. Nó có thể được nhận ra bởi cánh của chúng có hình móc với các góc kiểu trang trí kiểu vỏ sò và bởi sở thích của chúng là đậu trên mặt lá cây với những cánh giương lên khoảng 45 độ so với mặt phẳng ngang |
|
|
Bướm nhảy Hesperiidae |
|
|
|
|
Đây là một họ khác của bướm nhỏ. Họ Hesperiidae được phân biệt với tất cả các bướm khác bởi thân chúng ngắn và rộng và tương ứng là những cánh ngắn. Nó trông giống những con ngài hơn là những con bướm, và nay thực ra bao gồm cả một họ phụ riêng biệt ( Hesperiodea), khác biệt với những con bướm khác ( Papilionoidea). Không giống những họ bướm khác, tất cả các gân cánh trên cánh trước bắt đầu từ gốc cánh hoặc từ ô cánh, tất cả đều không chẻ chạc. Râu chùy hoặc râu móc ở trên đầu cách xa nhau. Một số loài có thế cánh đặc biệt khi bị bắt, các cánh giữ ở vị trí khoảng 45 độ so với thân, trong khi hầu hết các bướm khác đều đóng cánh của chúng lại. Sâu của họ bướm này ăn lá các loại cây khác nhau thuộc nhóm một lá mầm như cỏ ( poaceae), trong đó có cả lúa ( Oryxa sativa), chuối ( giống Múa), họ gừng ( Zingiberaceae…) Sâu thường có đầu sậm màu hơn so với thân, nhiều loài tạo thành một cái ống bằng lá cây chủ cuốn lại và chủ yếu ăn lá vào ban đêm. Nhiều giống trong họ này rất phức tạp về mặt phân loại, hầu như không thể nhận diện được bằng quan sát. Đây có lẽ cũng là họ bướm ít được người không chuyên gia quan tâm do kích thước nhỏ, màu sắc không hấp dẫn. Mặc dù vậy, một số loài khá phổ biến và thường gặp. Họ này rất phong phú, có khoảng 250 loài ở Việt Nam. |
|
|
Bướm ma Saturniidae |
|
|
|
|
Đây là một họ khác của bướm nhỏ. Họ này được phân biệt với tất cả các bướm khác bởi thân chúng ngắn và rộng và tương ứng là những cánh ngắn. Nó trông giống những con ngài hơn là những con bướm, và nay thực ra bao gồm cả một họ phụ riêng biệt (Hesperiodea), khác biệt với những con bướm khác (Papilionoidea). Không giống những họ bướm khác, tất cả các gân cánh trên cánh trước bắt đầu từ gốc cánh hoặc từ ô cánh, tất cả đều không chẻ chạc. Râu chùy hoặc râu móc ở trên đầu cách xa nhau. Một số loài có thế cánh đặc biệt khi bị bắt, các cánh giữ ở vị trí khoảng 45 độ so với thân, trong khi hầu hết các bướm khác đều đóng cánh của chúng lại. Giống họ Lycaenidae, các loài Hesperiid rất khó phân biệt. Hầu hết là màu nâu và màu xám với những vệt sáng hơn. Những loài thuộc nhóm Koruthaialos có những chấm hoặc vạch màu cam ở mặt trên của cánh trước và nhóm Bibasis gồm những loài có những vết màu xanh da trời – xanh lá cây ánh kim.Hesperiids được tìm thấy ở mọi môi trường sống và tốt nhất là sưu tập vào sáng sớm hoặc vào buổi tối bởi vì rất nhiều loài có sở thích hoạt động lúc hoàng hôn. |
|
Nhiều loài dường như cùng một lãnh thổ.Sâu của họ bướm này ăn lá các loại cây khác nhau thuộc nhóm một lá mầm như cỏ (poaceae), trong đó có cả lúa (Oryxa sativa), chuối (giống Múa), họ gừng (Zingiberaceae…) Sâu thường có đầu sậm màu hơn so với thân, nhiều loài tạo thành một cái ống bằng lá cây chủ cuốn lại và chủ yếu ăn lá vào ban đêm. Nhiều giống trong họ này rất phức tạp về mặt phân loại, hầu như không thể nhận diện được bằng quan sát. Đây có lẽ cũng là họ bướm ít được người không chuyên gia quan tâm do kích thước nhỏ, màu sắc không hấp dẫn. Mặc dù vậy, một số loài khá phổ biến và thường gặp. Họ này rất phong phú, có khoảng 250 loài ở Việt Nam |
|
|
|
|
|
|
Tra cứu họ côn trùng: |
|
|
Cánh cứng |
Loài khác |
|
|
|
|