Trang chủ | Tổng quan | Mẫu gỗ | Vườn quốc gia | English

Từ điển Latin-Việt

TỰ NHIÊN BÍ ẨN

THÔNG TIN MỚI

ĐÁNG GIÁ HAY ĐÁNG PHÁ, ĐÁNG QUÍ HAY ĐÁNG PHÍ ??

Lê Khắc Quyết - Hoàng Minh Đức - Phùng Mỹ Trung

Tựa đề bài viết lấy theo tên cuốn sách của IUCN  “Priceless or Worthless”

 

Conservation began with a focus on species, especially those in danger of extinction, and a major species focus needs to continue as a central element in all efforts to ensure the long-term viability of our living planet
Công cuộc bảo tồn khởi đầu với chú trọng về các loài, đặc biệt các loài đang bị đe doạ tuyệt chủng, và một trọng tâm bảo tồn loài chính cần tiếp tục như là một nhân tố trung tâm trong tất cả các nỗ lực nhằm đảm bảo sức sống lâu dài của hành tinh chúng ta.

Dr Russell A Mittermeier
President, Conservation International

 

Ngày 11 tháng 09 năm 2012, Hội Động vật Luân-đôn - Zoological Society of London – ZSL và Tổ chức Bảo tồn Thiên nhiên Quốc tế - International Union for Conservation of Nature – IUCN đã công bố danh sách 100 loài sinh vật đang bị đe doạ tuyệt chủng nhiều nhất trên thế giới. Cũng theo đánh giá của tổ chức bảo tồn thiên nhiên thế giới Việt Nam có 6 loài động vật gồm: Cá vồ cờ - Pangasius sanitwongsei , Rùa hồ gươm - Rafetus swinhoei , Gà lôi lam mào trắng - Lophura edwardsi , Saola - Pseudoryx nghetinhensis , Tê giác một sừng - Rhinoceros sondaicus và Voọc mũi hếch - Rhinopithecus avunculus có tên trong danh sách này. Đây là những loài được đánh giá ở mức độ cực kỳ nguy cấp. Phải nhắc lại rằng các loài này cũng đã được nêu tên trong các văn bản pháp quy và bảo tồn của Việt Nam và thế giới.  Danh sách 100 loài sinh vật này, một lần nữa, là sự cảnh báo và khuyến nghị cho các chuyên gia nghiên cứu và bảo tồn đa dạng sinh học, các nhà hoạch định chính sách về bảo tồn và những người yêu thiên nhiên Việt Nam cần có những hành động cấp thiết trong việc bảo tồn các loài sinh vật nguy cấp này.

 

Voọc mũi hếch - Rhinopithecus avunculus

Bộ lông màu nâu đen hoặc đen. Lông trên đầu và quanh mặt màu trắng nhạt. Không có mào lông trên đỉnh đầu. Vùng bụng, mắt, chi trước và chi sau có màu trắng nhờ, mảng lông trắng này kéo chùm ra phía bên ngoài khuỷu tay.  Đuôi dài hơn thân, lông xù. Con non mới đẻ lông màu vàng nhạt. Khi lớn chuyển màu như voọc trưởng thành. Thức ăn chủ yếu là chồi non , lá cây và quả cây. Thường sống ở những rừng có nhiều cây gỗ cao trên đỉnh núi đất, dưới thung lũng và trên núi đá. ở độ cao 200 -1.200 m.
Đây là một trong những linh trưởng đặc hữu của Việt Nam và là một trong số 25 loài linh trưởng nguy cấp nhất trên Trái đất. Hiện chỉ biết phân bố tại Khu Bảo tồn Thiên nhiên Na Hang, Khu Bảo tồn Thiên nhiên Chạm Chu - tỉnh Tuyên Quang , Khu Bảo tồn Loài và Sinh cảnh Voọc mũi hếch Khau Ca và khu rừng Tùng Vài - tỉnh Hà Giang . Đang bị đe doạ bởi các hoạt động săn bắn trái phép và sinh cảnh bị suy giảm và tác động.

 

 

 
Voọc mũi hếch - Rhinopithecus avunculus -  Ảnh: Lê Khắc Quyết
 

 

Tê giác một sừng - Rhinoceros sondaicus – Đã bị tuyệt chủng tại Việt Nam

Đã từng sinh sống ở khu vực rừng Cát Lộc – Vườn Quốc gia Cát Tiên và là biểu tượng của Vườn quốc gia này. Cá thể cuối cùng của loài được phát hiện chết  trong rừng vào năm 2010. Sau nhiều điều tra, nghiên cứu, Quỹ Quốc tế Bảo vệ Thiên nhiên - WWF đã tuyên bố loài này đã bị tuyệt chủng i Việt Nam.
Thân cỡ lớn nhất trọng họ  Tê giác  Rhinocerotidae ở Việt Nam, có thể dài tới 3m. Trọng lượng: trên 2.000 kg. Thị giác kém phát triển. Trên mũi chỉ có 1 sừng - thường chỉ có ở con đực mọc ngay trên mũi, sừng do lớp biểu bì tạo thành nên không gắn liền với xương sọ mà gắn với lớp biểu bì của da. Da dầy cứng, lông rất thưa, với 3 nếp gấp sâu và nhiều nếp gấp nhỏ chia bề mặt da thành nhiều mảnh - giống áo giáp . Lưng và hai bên hông mầu xám sẫm, bụng mầu hơi đỏ. Chân to, bàn chân 3 ngón với móng guốc hình bán nguyệt, móng giữa to hai móng bên. Tê giác sống đơn độc trong rừng già ở những nơi sâu kín ít ngươi qua lại. Nơi ở thường gần các sình lầy ẩm ướt, thích ngâm mìmh trong bùn nước.

Hiện nay, chỉ còn tồn tại một quần thể nhỏ không quá 100 cá thể ở Vườn Quốc gia Ujung Kulon, trên đảo Java, Indonesia.

 

 

 
Tê giác một sừng - Rhinoceros sondaicus -  Ảnh: Chụp lại từ ảnh gốc ở VQG Cát Tiên
 

 

Sao la - Pseudoryx nghetinhensis
Thân cỡ lớn, thân dài tới 1,3 - 1,5m, trọng lượng: 80 - 120kg. Đầu mầu nâu sẫm có những vạch trắng hoặc đen nhạt. Mặt nâu sẫm hay nâu đỏ nhạt, cả đực và cái đều có các sọc trắng ở trên và dưới mắt, nhiều vạch trắng ở cằm và cổ. Mặt sau tai mầu nâu, mặt trước tai mầu trắng nhạt, chóp tai có túm lông dài mầu trắng. Phần lưng mầu nâu hai bên sườn có vạch trắng nhạt phân cách lưng với các chân mầu đen nhạt. Bộ lông mềm mượt có các vòng xoáy ở giữa mũi, hai bên cổ và hai vai. Ngay trên móng guốc có vòng trắng ở cả 4 chân. Cả đực và cái đều có sừng. Sừng dài, gần như thẳng, không phân nhánh, mút sừng nhọn, nhẵn bóng, lõi sừng kéo dài tới mút sừng.Thức ăn chủ yếu là cỏ, lá cây rừng. Con non 7 - 8 tháng tuổi đã sử dụng 58 loài thực vật làm thức ăn. 
Loài thú mới phát hiện lần đầu tiên ở Việt Nam vào năm 1992. Chúng thích nghi với các vùng rừng núi cao, là đối tượng phục vụ cho du lịch sinh thái.Vùng phân bố hạn hẹp, số lượng không nhiều, vẫn bị săn bắn và bẫy bắt, vùng sinh sống bị xâm hại và ngày càng thu hẹp do phá rừng làm nương rẫy ven các suối trong rừng. Vùng phân bố bị chia cắt từng khu vực nhỏ, đang đứng trước nguy cơ bị giảm số lượng nhiều.

 

 

 
Sao la - Pseudoryx nghetinhensis -  Ảnh: Toon Fey - WWF
 

 

Gà lôi lam mào trắng - Lophura edwardsi
Con đực trưởng thành có màu xanh lam thẫm. Mào lông ở trên đỉnh đầu màu trắng. Lông ở lưng, cánh, bao cánh và đuôi đen với mép lông màu lam ánh thép. Đôi lông đuôi ở giữa nhọn, ngắn dần ở các đôi tiếp theo. Da mặt đỏ tía, tạo thành thuỷ nhỏ ở hai bên trán. Mắt màu đỏ da cam. Mỏ lục vàng nhạt hay màu sừng. Chân đỏ tía. Lần đầu tiên được phát hiện trên vùng rừng thứ sinh rậm rạp thuộc hai tỉnh Quảng Bình và Quảng Trị, trên độ cao 50 – 200 m.

Loài đặc hữu của Việt Nam. Kết quả điều tra, nghiên cứu từ năm 1988 đến nay cho thấy các vùng rừng trong khu vực phân bố lịch sử của chúng đã bị hủy hoại nghiêm trọng sau chiến tranh kéo dài, khốc liệt và bị khai thác quá mức. Đang bị đe doạ do nạn săn bắt, nuôi làm cảnh và buôn bán trái phép. \Gà lôi lam mào trắng đã được coi là loài hiếm của họ Trĩ, số lượng ít, vùng phân bố hẹp và đang được quan tâm bảo tồn đặc biệt

 

 

 
Gà lôi lam mào trắng - Lophura edwardsi -  Phùng M
 

 

Rùa hồ gươm - Rafetus swinhoei
Loài rùa mai mềm sống ở nước ngọt lớn nhất thế giới có phân bố ở Việt Nam. Mai dẹp có hình dạng thuôn gần giống hình chữ nhật. Xương sống đầu tiên ngăn cách đôi xương sườn thứ nhất. Có 7 xương sống, xương thứ bảy nhỏ tiếp xúc với đôi xương sườn thứ 6 và 7 đôi khi có xương sống thứ 8 rất nhỏ, tách biệt hẳn với xương sống thứ 7. Đôi xương sườn thứ 8 tiêu giảm rất nhỏ và tiếp xúc nhau gần như hoàn toàn nhưng đường tiếp xúc này nằm lệch so với đường giữa mai. Xương mai có nhiều vết rỗ tròn. Mai màu xanh nâu hoặc nâu đen - ở các mẫu khô ở Việt Nam , mẫu chuẩn đang lưu giữ tại Bảo tàng Lịch sử tự nhiên Anh có những đốm màu vàng và nhiều chấm vàng nhỏ nằm xen giữa - đôi khi tạo thành vòng tròn bao quanh đốm lớn hoặc xếp thành các sọc . Các điểm này thường thấy rõ dọc theo phần trước của hai riềm mai. Yếm chỉ có 2 chai không phát triển ở vùng xương ức và xương ngực. Các xương trước yếm tách biệt và các xương đòn tạo thành góc vuông với đường giữa yếm. Yếm màu xám hoặc trắng đục.
Thường sống ở những sông hồ sâu, nước chảy yếu. Những hôm trời oi bức về mùa hè,loài này thường ngóc cổ lên khỏi mặt nước để thở. Về mùa đông rùa ở Hồ Gươm - Hà Nội đôi khi mò lên mô đất tháp rùa để phơi nắng. Tuy con rùa cỡ lớn nhưng không dữ như loài Ba ba mà chậm chạp, không cắn người như trong những truyền thuyết. Hiện nay loài này đang có nguy cơ bị tuyệt chủng rất cao.

 

 

 
Rùa hồ gươm - Rafetus swinhoei -  Ảnh: Internet download
 

 

Cá vồ cờ - Pangasius sanitwongsei

Loài cá da trơn nước ngọt có kích thước rất lớn này đã bắt được ở đồng bằng sông Cửu long tới 200kg. Có đầu dẹp, bằng, dẹp, miệng cận dưới, không co duỗi được, rộng ngang và có hình vòng cung nằm trên mặt phẳng ngang. Răng nhỏ mịn, răng lá mía kết hợp thành một đám, chiều rộng trước và sau tương đương. Lỗ mũi sau gần lỗ mũi trước hơn gần mắt, nằm trân đường thẳng kẻ từ lỗ mũi trước đến bờ trên của mắt. Râu cằm ngắn hơn râu mép. Phần trước than có tiết diện tròn và phần sau dẹt. Cuối đuôi thon dài và vây lưng có tia vây lưng kéo dài về phía đuôi rất rõ và có răng cưa hướng xuống gốc vi. Loài này sống chủ yếu ở vùng sông Mekong và là loài rất hiếm. Mặc dù vậy loài này chưa được đưa vào sách đỏ Việt Nam và các nghị định nhằm bảo vệ chúng ở Việt Nam

 

 

 
Cá vồ cờ - Pangasius sanitwongsei -  Ảnh: Internet download
 

 

Tại sao những loài động vật tuyệt đẹp của chúng ta “bị” đưa vào danh sách các loài sinh vật đe dọa tuyệt chủng này? Những loài động vật này còn bao nhiêu cá thể trong tự nhiên? Tình trạng của chúng ra sao? Có bao nhiêu % người Việt Nam, đặc biệt là thế hệ trẻ chúng ta đã được nhìn thấy loài này ở tự nhiên hay các phương tiện truyền thông? Câu trả lời sẽ không của riêng ai.

Hơn thế nữa, chúng ta cũng không thể lấy làm tự hào, mà phải thấy hối tiếc vì "đóng góp" những loài động vật vào danh lục này của IUCN. Ước mơ lớn nhất của chúng ta lúc này là liệu trong vòng 5 năm tới ngoài loài Tê giác một sừng Rhinoceros sondaicus đã hoàn toàn biết mất ở Việt Nam thì 5 loài động vật còn lại được liệt kê ở trên liệu có thể có một loài "bị" đưa ra khỏi danh sách  hay không ? và đó không chỉ là niềm hạnh phúc lớn lao cho Thiên nhiên hoang dã của chúng ta mà con là những nỗ lực bảo tồn của cộng đồng. Phải chăng ngay từ lúc này, chúng ta cần chung tay hành động bảo vệ các loài động, thực vật và thiên nhiên hoang dã tuyệt đẹp của đất nước Việt Nam khi còn chưa quá muộn.

 

 


Giới thiệu | Tra cứu | Danh pháp | Diễn đàn | Liên hệ | Văn Bản | Trợ giúp | SVR Mobile

Mọi chi tiết xin liên hệ Admin website Sinh vật rừng Việt Nam
© Ghi rõ nguồn '
Sinh vật rừng Việt Nam' khi bạn phát hành lại thông tin từ Website này