|
ĐỖ TRỌNG
ĐỖ TRỌNG
Eucommia ulmoides
Oliv.
Họ: Đỗ trọng Eucommiaceae
Bộ: Đỗ trọng Eucommiales
Đặc điểm nhận dạng:
Cây nhỡ hay cây to cao 10m hay hơn,
vỏ thân và lá có nhựa mủ trắng vỏ màu
xám,
khi bẻ đôi sẽ thấy những sợi nhựa trắng mảnh
như tơ nối giữa các mảnh vỏ; lá mọc so le,
hình trứng rộng,
dài 6 - 8 cm,
rộng 3 - 7,
5 cm,
màu lục bóng,
mép lá
khía răng. Lá cũng có gôm tựa
Gutta
percha như ở vỏ. Hoa đơn tính khác gốc; hoa đực và hoa cái không có bao hoa; hoa
đực mọc thành chùm; hoa cái tụ tập 5 - 10 cái ở nách lá. Quả hình thoi dẹp,
màu nâu.
Sinh học, sinh thái:
Loài của Trung Quốc mọc hoang ở vùng lạnh và
cũng được trồng nhiều,
nhập giống vào trồng ở
nước ta từ năm 1958,
đến năm 1960,
việc trồng thử ở Sapa đạt kết quả tốt.
Ta đã nhân giống và trồng ở một số nơi khác ở Vĩnh Phú,
Lai Châu,
Thanh Hóa,
Gia Lai,
Lâm Đồng thì nhận thấy cây sinh trưởng
tốt ở vùng núi cao trên 1000m. Trồng 10 năm 50 - 60 cm mới thu hoạch được vỏ
tốt. Có thể thu vỏ vào mùa xuânbằng cách bóc trừ lại 1/3 chu vi thân đảm bảo cho
cây vẫn sinh trưởng bình thường,
để sau vài năm lại tiếp tục thu hoạch.
Vỏ bóc ra đem ép phẳng. Xếp thành đống,
ủ 6 - 7 ngày đến khi mặt trong có màu
đen. Phơi hay sấy khô,
cạo vỏ ngoài cho nhẫn bóng.
Công dụng:
Vỏ đỗ trọng dùng trị thận hư,
đau lưng,
chân gối yếu mỏi,
phong thấp,
sưng tê phù,
cao huyết
áp, di tinh liệt dương,
có thai đau bụng,
động thai ra huyết,
hay đi đái đêm bại liệt. Ngày dùng 12 -
20g,
dạng thuốc sắc,
cao lỏng,
rượu thuốc hoặc hoàn tán. Khi dùng có
thể tẩm muối sao.
Mô tả loài:
Trần Hợp – Phùng Mỹ Trung.
|
|