|
TÊ GIÁC MỘT SỪNG
TÊ
GIÁC MỘT SỪNG
Rhinoceros sondaicus
Desmarest,
1822
Rhinoceros inernus
Lesson, 1840
Rhinoceros
floweri Gray, 1867.
Họ: Tê giác Rhinocerotidae
Bộ: Ngón lẻ Perissodactyla
Đặc
điểm nhận dạng:
Thân cỡ lớn nhất
trọng họ
Tê giác
Rhinocerotidae
ở Việt Nam, có thể dài tới 3m. Trọng lượng: trên 2000 kg. Thị giác kém phát
triển. Trên mũi chỉ có 1 sừng (thường chỉ có ở con đực) mọc ngay trên mũi, sừng
do lớp biểu bì tạo thành nên không gắn liền với xương sọ mà gắn với lớp biểu bì
của da. Da dầy cứng, lông rất thưa, với 3 nếp gấp sâu và nhiều nếp gấp nhỏ chia
bề mặt da thành nhiều mảnh (giống áo giáp). Lưng và hai bên hông mầu xám sẫm,
bụng mầu hơi đỏ. Chân to, bàn chân 3 ngón với móng guốc hình bán nguyệt, móng
giữa to hai móng bên nhỏ.
Sinh học - Sinh
thái:
Thức ăn của tê
giác là củ,
quả, rễ cây, cành lá cây nhỏ, kể cả cành cây nhỏ có gai. Tuổi sinh sản 4 - 5
năm. Thời gian có chửa 16 - 18 tháng; 3 - 4 năm đẻ 1 lứa, mỗi lứa 1 con. Tê giác
sống đơn độc trong rừng già ở những nơi sâu kín ít ngươi qua lại. Nơi ở thường
gần các sình lầy ẩm ướt, thích ngâm mìmh trong bùn nước.
Phân
bố:
Trong
nước : Lâm Đồng (Cát Lộc thuộc Vườn quốc gia Cát
Tiên).
Thế giới: Đông
Pakixtan, Ấn Độ, Mianma, Thái Lan, Lào, Malaixia, Inđônêxia (Sumatra).
Giá trị:
Thú quý hiếm. Có
giá trị bảo tồn nguồn gen trong thiên nhiên và nghiên
cứu khoa học cũng như nuôi làm cảnh ở công viên, vườn thú.
Tình trạng:
Hiện nay ở Việt
Nam chỉ còn một quần thể nhỏ dưới 1 cá thể ở vùng rừng Cát Lộc, huyện Cát Tiên
tỉnh Lâm Đồng, một phần của Vườn Quốc gia Cát Tiên. Trước đây Tê giác một sừng
được ghi nhận ở nhiều nơi Lai Châu (Mường Tè, Mường Lay), Sơn La (Sông Mã), và
các vùng thuộc Trung Bộ:, Nam Bộ:: Đắk Lắk (Đắk Nông, Đắk Min, Ea Súp), Đồng Nai
(Nam Cát Tiên), Bình Phước (Bù Gia Mập), hiện nay các nơi này hầu như không còn.
Quần thể nhỏ ở khu vực rừng Cát Lộc với diện tích gần 20.000ha cũng đang bị sức
ép của sự phát triển kinh tế, của dân cư sinh sống trong vùng. Mặt khác vùng Cát
Lộc hàng năm thường bị lũ lụt kéo dài cũng ảnh hưởng tới đời sống của chúng.
Phân hạng :
CR A1c B2a,b C1+ 2b D
Biện pháp bảo vệ:
Đã được đưa vào Sách đỏ Việt Nam (1992-2000) và Danh lục đỏ IUCN (1996) Nghị
Định 18/HĐBT,
Nghị định 32/2006/NĐ-CP của Chính phủ cấm săn bắn bẫy bắt và buôn bán Tê
giác. Mặt khác cần bảo vệ nghiêm ngặt vùng rừng Cát Lộc, di chuyển các hộ dân
đang sống giữa vùng rừng bảo vệ đến nơi định cư mới, xây dựng vùng đệm nâng cao
đời sống nhân dân để giảm sức ép lên rừng, đồng thời cũng có thể di chuyển một
số cá thể về vườn thú hoặc Vườn quốc gia khác để bảo tồn nguồn gen hữu hiệu hơn.
Tài
liệu dẫn:
Sách đỏ Việt Nam
- phần động vật – trang 31.
|
|