|
CHEO NAM DƯƠNG
CHEO NAM DƯƠNG
Tragulus javanicus
(Osbeck,
1765)
Cervus
javanicus
Osbeck, 1765
Tragulus affinis
Gray, 1861
Tragulus kanchil
Pierrei, 1903
Họ: Cheo cheo Tragulidae
Bộ: Ngón chẵn Artiodactyla
Đặc điểm nhận
dạng:
Loài thú móng
guốc nhỏ nhất trong họ
Cheo cheo Tragulidae,
thân dài khoảng 0,4 - 0,5m; trọng lượng trung bình 1300 - 2300g. Dạng ngoài hơi
giống hoẵng. Đực, cái đều không có sừng, không có tuyến trước ổ mắt, răng nanh
mọc dài ngoài mép (đực dài hơn), thiếu răng cửa trên.
Chi rất
mảnh, ngón 3, 4 phát triển. Bộ lông ngắn, mịn, đồng màu nâu đỏ ở mặt trên và mặt
bên, thẫm ở dọc giữa lưng, nhạt dần ở hai bên, dọc gáy có vệt lông đen. Dưới cằm
và họng có 2 vệt trắng chung gốc, 1 vệt dọc giữa tự do; đuôi lông xù, mặt trên
màu giống lưng, mặt dưới trắng nhạt.
Sinh học, sinh
thái:
Cheo ăn lá, chồi,
thân non, hoa, quả, hạt, củ, cỏ, nấm. Thức ăn ưa thích là quả. Cheo cũng ăn
côn trùng (sâu, nhộng), xác động vật. Cheo ghép đôi vào tháng 9 - 12 hàng năm, đẻ từ tháng 1 - 9, đẻ nhiều vào tháng
5-7. Theo A. Asdell (1946) và Grasse, (1955) Cheo cheo mang thai 120 ngày, năm
đẻ 1 lứa/1 con.Cheo ưa sống đơn độc, chỉ ghép đôi thời kỳ động dục, hay ở rừng
thưa, cũng có ở rừng già, ưa nơi bằng phẳng, khô ráo, có nhiều bụi rậm và có
tầng cỏ quyết phát triển, trú ngụ trong các gốc cây to, bụi rậm. Hoạt động chủ
yếu về đêm, từ 19h - 23h, mạnh nhất 20h - 22h. Nơi vắng cũng có thể gặp Cheo vào
buổi sáng (5h - 7h).
Phân bố:
Trong nước:
Lạng Sơn, Vĩnh Phú, Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa
Thiên - Huế, Gia Lai, Kontum, Đắk Lắk, Lâm Đồng, Đồng Nai, Tây Ninh.
Thế giới: Ấn Độ, Nam
Mianma, Thái Lan, Lào, Cămpuchia, Malaixia, Inđônêxia (Sumatra, Java, Borneo)
Giá trị:
Cheo là loài thú
hiếm, dễ nuôi làm cảnh, nuôi ở các vườn thú, về khoa học, Cheo là loài thú Móng
guốc cổ nhất, chỉ còn tồn tại ở rừng nhiệt đới Đông nam châu Á.
Tình trạng:
Ở các tỉnh phía
Bắc Cheo gần như tuyệt chủng, ở các tỉnh phía Nam, diện tích nơi cư trú đang
giảm mạnh, hiện còn ước khoảng 2000km 2, chủ yếu ở Tây Nguyên. Số
lượng cá thể ước tính còn dưới 10000 con, mỗi năm có thể giảm sút 3 - 4%.
Phân hạng:
VU A1a,d C1.
Biện pháp bảo vệ:
Sách đỏ Việt Nam
năm 2000 xếp bậc V. Nhà nước chưa có văn bản bảo vệ. Đề nghị: Nhà nước sớm có
văn bản cấm săn bắt, buôn bán loài này.
Tài
liệu dẫn:
Sách đỏ Việt Nam
- phần động vật – trang 31.
|
|