|
CHÒ CHỈ
CHÒ
CHỈ
Parashorea chinensis
Wang Hsie, 1977
Họ:
Dầu Dipterocarpaceae
Bộ:
Bông Malvales
Mô tả:
Cây gỗ to, có
thân hình trụ thẳng, cao 45 - 50 m, đường kính 0,8 - 0,9 m, chiều cao dưới cành
đến hơn 30 m. Tán thưa,
gốc có bạnh vè nhỏ. Võ màu xám, nứt dọc nhẹ. Thịt vỏ vàng và hơi
hồng, có nhựa và có mùi thơm nhẹ. Cành lớn thường bị vặn. Lá hình mác hay bầu
dục, có lá kèm sớm rụng; gân bậc hai 15 - 20 đôi, song song, nổi rõ ở mặt dưới.
Mặt dưới lá và trên các
gân có lông hình sao. Cụm hoa lông ở đầu cành hay nách lá. Hoa nhỏ có
mùi thơm đặc biệt. Quả hình trứng, có mũi nhọn do gốc vòi nhụy tồn tại, mang 2
cánh to, 3 cánh nhỏ. Hạt 3 - 4.
Sinh học:
Mùa hoa tháng 5 -
6, mùa quả chín tháng 7 - 9. Thường 2 - 3 năm mới có 1 lần sai quả. Hạt rơi
xuống nảy mầm ngay.
Nơi sống và sinh
thái:
Mọc rải rác trong
rừng rầm nhiệt đới thường xanh mưa mùa ẩm, cùng với các loài Gội (Aglaia
gigantea), Sấu (Dracontonelum duperreanum),
Sâng (Amesiodendron chinense), .. ít khi mọc thành đám nhỏ
thuần loại. Tái sinh tốt ở ven suối hay ở nơi có độ tàn che nhỏ. Cây non bị chết
dưới tán rừng quá rậm.
Phân bố:
Việt Nam: Loài
thực vật thuộc họ
Dầu Dipterocarpaceae có ở hầu hết các tỉnh Bắc Việt Nam , từ Quảng
Bình trở ra. Gặp nhiều ở Tuyên Quang (Na Hang, Chiêm Hoá), Vĩnh Phú (Thanh Sơn),
Thanh Hoá (Quan Hóa), Nghệ An (Quỳ Châu), Hà Tĩnh (Hương Khê, Hương Sơn).
Thế giới: Trung
Quốc.
Giá trị:
Gỗ chò chỉ vàng
nhạt hay hơi hồng, rất bền, chịu nước, chịu chôn vùi, dùng làm cột nhà để xây
dựng và đóng đồ đạc. Dáng đẹp có thể làm cây đường phố.
Tình trạng:
Biết không chính
xác. Do
gỗ chò chỉ tốt nên chò chỉ đang bị săn lùng ráo riết để khai thác.
Mức độ đe doạ: Bậc K.
Đề nghị biện pháp
bảo vệ:
Khoang khu bảo vệ
ở Xân Sơn (Vĩnh Phú), Chiêm Hóa (Tuyên Quang) và sớm đưa vào vùng trồng trọt ở
vùng phân phố tự nhiên. Thăm dò khả năng trồng làm cây dọc đường phố.
Tài liệu dẫn:
Sách đỏ Việt Nam - trang 209.
|
|