|
KIỀN KIỀN PHÚ QUỐC
KIỀN KIỀN PHÚ QUỐC
Hopea pierrei
Hance, 1876.
Hancea pierrei
(Hance) Pierre, 1891.
Họ: Dầu Dipterocarpaceae
Bộ:
Bông Malvaceae
Đặc điểm nhận dạng:
Cây gỗ lớn, thường xanh,
có
tán hình cầu. Thân thẳng, hình trụ, cao tới 40 m, đường kính 0,6 - 0,8 m hay
hơn.Vỏ màu nâu đen, nứt dọc sâu.Lá đơn mọc cách, hình trứng, đầu có mũi nhọn,
gốc tròn. Lá khô màu xanh đen, mặt trên có phấn trắng. Cụm
hoa chùm; hoa mẫu 5; cánh hoa mầu đỏ nhạt, mặt ngoài có lông,
Quả
nhỏ, hình trái xoan, có mỏ ở đỉnh, vỏ quả hoá gỗ chứa nhiều nhựa, mang 2
cánh dài 2 - 2,3 cm với 7 gân song song.
Sinh học và sinh thái:
Mùa hoa tháng 9 - 10, mùa quả chín
tháng 5 - 6 (năm sau). Cây mọc thành đám hay rải rác trong kiểu rừng kín, thường
xanh, mưa mùa nhiệt đới ẩm. Thường cùng mọc với Sao đen, Trám cà na, Xoài rừng,
Dầu rái... Cây ưa
đất đỏ vàng phát triển trên các loại đất axít và kiềm. Rất mẫn cảm với chất
độc hoá học làm trụi lá cây, vì vậy rừng Kiền kiền bị tàn phá mạnh trong chiến
tranh chống Mỹ. Cây cho nhiều quả, tái sinh bằng hạt tốt.
Phân bố:
Trong nước: Thừa Thiên - Huế, Đắk
Lắk, thành phố Hồ Chí Minh, Kiên Giang.
Thế giới:
Thái Lan, Campuchia, Malaixia,
Inđônêxia.
Giá trị:
Gỗ tốt, cứng, thớ mịn, rất bền ngoài
không khí,
gỗ không bị mối mọt, dùng trong xây dựng, đóng tàu thuyền, làm cột nhà,
khung nhà, ván sàn. Có thể thay thế gỗ téch trong nhiều công việc. Vỏ cây dùng
làm vách nhà thay gỗ, rất bền.
Tình trạng:
Do gỗ có giá trị cao nên Kiền kiền
đang bị khai thác mạnh ở khắp nơi. Riêng phong trào dùng cây Kiền kiền làm nọc
tiêu (cây bám cho dây hồ tiêu) ở Phú Quốc và Tây Nguyên cũng làm cho rừng Kiền
kiền bị chặt phá rất mạnh.
Phân hạng:
EN
A1c,d.
Biện pháp bảo vệ:
Loài đã được ghi trong
Sách Đỏ Việt Nam (1996) với cấp đánh giá
"biết không chính xác" (Bậc
K). Được bảo vệ trong Vườn quốc gia Phú Quốc (tỉnh Kiên Giang).
Tài liệu dẫn:
Sách
đỏ Việt Nam năm 2007 – Phần thực vật – Trang 175. |
|