|
MÃ ĐẬU LINH QUẢNG TÂY
MÃ ĐẬU LINH QUẢNG TÂY
Aristolochia
kwangsiensis
Chun & How ex Liang, 1975.
Họ: Mộc hương
Aristolochiaceae
Bộ: Mộc hương Aristolochiales
Đặc điểm nhận dạng:
Cây sống nhiều năm,
thân leo hoá gỗ, có rễ củ to. Thân non và lá non có nhiều lông. Lá già chỉ
có lông ở mặt dưới và ở gân mặt trên. Phiến lá dạng trứng tròn: 23
- 34 x 22 - 32
cm; chóp lá tù, gốc lõm dạng tim; có 5 đôi gân bên gần đối xứng nhau; gân mạng
nổi rõ ở mặt dưới lá. Cụm hoa có 1 - 2 hoa ở nách lá. Hoa có cuống; cả cuống và
bao hoa cong hình chữ "S"; ống bao hoa xanh nhạt, dài đến 7,5 cm, phần lớn
nhất ở chỗ cong có đường kính khoảng 1,4 cm; các thuỳ của ống hình tam giác, mặt
tím hồng, mặt trên có các gai nổi màu hồng đậm; họng ống tròn, màu vàng. Nhị 6.
Bầu 6 ô; vòi nhuỵ 6. Quả màu nâu vàng, gần hình trụ tròn, dài 8
- 10 cm, có 6 cạnh
lồi, đỉnh có đuôi dài khoảng 3mm. Hạt hình trứng, màu nâu, cỡ 5 x 4 mm, mặt hơi
lõm.
Sinh học, sinh thái:
Ra hoa vào tháng 5,
mùa quả tháng 6 - 9. Cây
tái sinh chồi ở thân vào mùa xuân. Chưa rõ khả năng trồng bằng hạt. Cây ưa
sáng và có thể chịu bóng; mọc rải rác trên đất lẫn đá, ở rừng thứ sinh, thưa, ở
độ cao tới 1000 m.
Phân bố:
Trong nước: Hà Giang (Mèo
Vạc), Cao Bằng (Thạch An), Lạng Sơn (Cao Lộc, Đồng Đăng), Hải Phòng (Cát Bà).
Thế giới: Trung Quốc.
Giá trị:
Loài quý, hiếm, rễ củ
làm thuốc chữa đau bụng thổ tả, đau xương, đau gân, bệnh về gan, mật.
Tình trạng:
Loài đã từng bị khai
thác lấy nguyên liệu làm thuốc. Trong các điểm phân bố trước đây, tại Thạch An
(Cao Bằng) nay không còn tìm lại được. Khu phân bố chia cắt xa nhau, bị tàn phá
nghiêm trọng.
Phân hạng:
EN
A1c,d
Biện pháp bảo vệ:
Loài đã được ghi trong
Sách Đỏ Việt Nam (1996) với cấp đánh giá "sẽ nguy cấp" (Bậc
V). Cần có kế hoạch điều tra, xác định điểm phân bố còn sót lại để bảo vệ.
Đồng thời đưa về trồng, nghiên cứu nhân giống để phát triển.
Tài liệu dẫn:
Sách đỏ Việt Nam 2007 trang 92. |
|