|
PHONG BA
PHONG BA
Argusia argentea
(L.f.) Heine, 1976.
Tournefortia argentea
L.f. 1781.
Messerschmidia argentea
(L.f.) Johns. 1935.
Họ: Vòi voi Boraginaceae
Bộ: Vòi
voi Boraginales
Đặc điểm nhận dạng:
Cây gỗ trung bình hay
cây bụi, thường xanh, cao 2 - 16m, đường kính 15
- 50cm. Lá đơn, mọc cách,
thường tập trung ở phía đầu cành;
phiến lá hình trứng ngược, dài 8 - 30 cm, rộng 3
- 14 cm, đỉnh tròn hay tù, gốc
hình nêm, mép nguyên, chất thịt, hai mặt phủ lông mềm dài màu trắng bạc như
nhung; cuống rất ngắn;
gân lá cấp 2 có 3 - 4 đôi, nổi rõ cả hai mặt. Cụm hoa hình xim bọ cạp họp
thành ngù ở đầu cành, đường kính 15 - 20 cm; cụm hoa cơ sở có 2 dãy
hoa không cuống mọc zích zắc. Đài phủ đầy lông mềm màu trắng bạc, xẻ 5 thuỳ
đến gần gốc. Tràng hình phễu, ống màu lục, không lông; thuỳ màu trắng, gần tròn.
Nhị 5, không chỉ nhị, đính sâu trong ống tràng; bao phấn màu vàng. Bầu trên,
hình chóp, 2 ô; mỗi ô một noãn; đầu 2.
Quả
khô, hình tròn, có đài tồn tại, ôm chặt lấy quả; đường kính 5
- 6 mm, không
nứt, khi chín màu vàng mơ; mỗi quả có 2 hạt.
Sinh học, sinh thái:
Mùa hoa tháng 3 - 5, mùa quả chín
tháng 10 - 12. Tái sinh bằng hạt và cành. Mọc ở ven biển và hải đảo. Cây ưa sáng,
có khả năng chịu hạn và gió bão, chịu mặn hoặc bụi nước mặn, sống được ở môi
trường cát san hô.
Phân bố:
Trong nước: Ven bờ biển thuộc
thành phố Đà Nẵng và các
tỉnh Khánh Hoà, Ninh Thuận (Ninh Phước: Cà Ná), Bình Thuận, Bà Rỵa
- Vũng Tàu,
Kiên Giang; đảo ven bờ như Cồn Cỏ (Quảng Trị); đảo xa bờ như Côn Đảo, Bảy Cạnh (Bà
Rịa - Vũng Tàu) và quần đảo Trường Sa (đảo Trường Sa Lớn, Nam Yết, Sinh Tồn, Sơn
Ca, Song Tử Tây...) thuộc tỉnh Khánh Hoà.
Thế giới: Ấn Độ, Srilanka, Trung Quốc (Hải
Nam), Đài Loan, Malaixia, Inđônêxia (Giava), Philippin, Niu Ghinê.
Giá trị:
Đặc biệt về giá trị nguồn gen, bởi
khả năng thích nghi cao với môi trường khắc nghiệt của vùng biển. Có tác dụng
che chắn gió bão và nước mặn cho vùng ven biển và đảo, nhất là Trường Sa.
Tình trạng:
Tuy loài có khu phân bố rộng ở vùng
biển, nhưng số lượng cá thể ít trên mỗi điểm, nơi cư trú bị chia cắt mạnh, rất
nhỏ hẹp và còn bị thiên nhiên phá hoại.
Phân hạng:
VU A1a
Biện pháp bảo vệ:
Loài đã được ghi trong
Sách Đỏ Việt Nam (1996) với cấp đánh giá "hiếm (R). Cần nghiên cứu trồng
thêm ở một số vùng ven bờ biển và nhất là ở các đảo.
Tài liệu dẫn:
Sách
đỏ Việt Nam năm 2007 – Phần thực vật – Trang 141 |
|