|
CHÒ ĐÃI
CHÒ ĐÃI
Annamocarya sinensis
(Dode) J. Leroy, 1950.
Carya sinensis
Dode, 1912
Juglans
indochinensis A. Chev. 1941.
Rhamphocarya integrifoliata
Kuang, 1941.
Annamocarya indochinensis
(A. Chev.) J. Leroy, 1955.
Họ: Hồ đào Juglandaceae
Bộ: Hồ đào Juglandales
Đặc điểm nhận dạng:
Cây gỗ lớn, có bạnh gốc to, rụng lá
trong mùa khô, cao 25 - 30(35) m, đường kính 60 - 100 cm. Lá kép 1 lần lông chim
lẻ, dài 30 - 40 cm; lá chét 7 - 9, gần chất da; những chiếc phía trên khá to,
hình bầu dục dài hoặc hình mác - bầu dục, cỡ 12 - 15 x 4 - 5 cm; những chiếc
dưới nhỏ hơn, thường hình trứng; cuống lá chét dài 3 - 5 mm. Cụm hoa đực hình
đuôi sóc, dài 13 - 15 cm, rủ xuống, thường chụm 5 - 7 thành một bó, mọc ở nách
lá. Cụm hoa cái là bông ở đầu cành, đứng thẳng. Hoa cái 3 - 5 trong mỗi cụm hoa.
Quả hình cầu hay hình trứng, dài 6 - 8 cm, đường kính 5 - 6 cm, vỏ quả ngoài
dày, hoá gỗ, thường nứt thành 6 - 9 mảnh.
Sinh học, sinh thái:
Ra hoa tháng 4 - 5, có quả tháng 8 -
9. Mọc rải rác trong rừng nguyên sinh thường xanh, vùng núi đá vôi, thường dựa
suối hoặc trong thung lũng, ở độ cao 400 - 1000 m. Cây tái sinh chủ yếu bằng
hạt.
Phân bố:
Trong nước: Lai Châu (Phou Nhou),
Vĩnh Phúc (Tam Đảo), Hải Phòng (Cát Bà), Ninh Bình (Cúc Phương), Thanh Hoá (Lang
Chánh, Lũng Vân)
Thế giới: Trung Quốc (Vân Nam, Quảng
Tây).
Giá trị:
Gỗ tốt, có thể dùng trong xây dựng,
đóng đồ gia dụng. Hạt ép lấy dầu béo. Vỏ quả chế than hoạt tính.
Tình trạng:
Loài có khu phân bố chia cắt; ở các
điểm thuộc Lai Châu và Thanh Hoá rừng đã bị khai thác nặng nề. Bản thân loài
cũng bị khai thác lấy gỗ.
Phân hạng:
EN B1+2c,d,e.
Biện pháp bảo vệ:
Loài đã được ghi trong
Sách Đỏ Việt Nam (1996) với cấp đánh giá
"sẽ nguy cấp" (Bậc V). Không chặt đốn những cây trưởng thành còn sót lại ở các
điểm phân bố, nhất là ở Tam Đảo, Cát Bà, Cúc Phương. Có thể tìm nguồn giống mang
về trồng tại Trạm Đa dạng sinh học Mê Linh (Vĩnh Phúc).
Tài liệu dẫn:
Sách đỏ Việt Nam năm 2007 - phần thực vật – trang 239.
|
|