Home | Overview | Timbers | National parks | Vietnamese

FOCUS IN WILDLIFE
NEW EVENTS

 

MAIN FEATURES OF INSECTS FAMILY

 
Order:
Bugs
Others
   

1 2

 

Acraeidae
 

Đây là một họ bướm nhỏ (chỉ có hai loài ở Việt Nam được công bố). Họ Acraeids có cánh dài và trong, màu vàng cam và màu đen. Giống như họ bướm giáp - Nymphalidae Các loài thuộc họ này đều có một đặc điểm chung nổi bật nhất là sự thoái hoá của chân trước khiến cho hai chân trước của họ này hoàn toàn không có khả năng di chuyển

Amathusiidae
 

Họ bướm chúa bao gồm các loài có kích thước từ trung bình đến rất lớn, nhiều loài màu sắc và hoa văn rất đẹp. Giống như họ Satyridae chân trước yếu và cánh có những chấm hình mắt, mặc dù chúng khó thấy hơn và các con bướm thường sặc sỡ một cách đặc biệt. Không giống với họ Satyridae, họ Amathusiidae có khuynh hướng có những cánh sau với toàn bộ diềm (termen). Đây là nhóm bướm sống dưới tán, rất ít gặp ngoài trảng trống, phần lớn sống trong rừng hoặc gần rừng, chỉ có vài loài phân bố đến khu vực dân cư. Hầu như không bao giờ thấy mặt trên cánh khi đậu. Các loài trong họ này thường hoạt động mạnh lúc sáng sớm và chiều tối, bay thấp, sát mặt đất, len lỏi giữa các bụi cây. Ban đêm một số loài phổ biến thường bay vào đèn. Sâu của Amathusiinae có nhiều lông dài, nhiều loài trong họ này ăn lá tre, trúc và những cây họ dứa. Các loài trong họ này đều bị hấp dẫn bới trái cây chín rụng dưới đất. Do kích thước lớn, màu sắc đẹp và phần lớn ở trong rừng, nhiều loài trong họ này có tên thông thường

 

tiếng anh chỉ sự lộng lẫy của chúng như Jungle Queen (Nữ hoàng rừng), Jungle king (Vua rừng), Jungle Glory (sự lộng lẫy của rừng)…Ở Việt Nam hiện nay có khoảng 30 loài thuộc họ này.

Danaidae
 

Họ Danaidae là tất cả những bướm từ trung bình đến lớn thường được đánh dấu nổi bật bởi màu đen, da cam hoặc trắng. Thân thon dài và thường màu đen cùng với những đốm trắng. Các chân trước yếu và không có tác dụng ở cả hai giới tính. Hầu hết các loài được tìm thấy ở những môi trường sống thoáng đãng, có ánh nắng nơi chúng tìm thức ăn từ những bông hoa. Khi còn là ấu trùng, nhiều loài lấy thức ăn từ những cây độc hoặc xấu và tích lũy các chất độc trong cơ thể để bảo vệ lúc trưởng thành. Các màu sáng có tác dụng ngăn chặn nhiều động vật ăn thịt như chim. Một số bướm không có hại từ nhiều họ khác giống hệt họ Danaidae (Như Hestima nama (Nymphalidae), Elymnias hypermnestra (Satyridae)

Lycaenidae
 

Là một họ lớn của nhiều bướm nhỏ, nhiều loài trong số chúng có đuôi ở cánh sau, rất phong phú về số loài và hình dạng, màu sắc. Phần lớn các loài có mặt trên cánh màu trắng, xanh lơ, xanh dương, xanh tím… một số nhóm có kiểu màu đỏ, cam. Mặt dưới cánh xỉn màu hơn, có những đường vân, đốm, vạch… rất tinh vi. Râu thường có dạng khoang trắng đen rất nhỏ như sợi tóc (giống Prosotas, Nacduba…) hoặc có thể dài đến rất dài (Drupadia, Zeltus…). Sát gốc đuôi thường là các đốm mắt. Người ta cho rằng đuôi và đốm mắt là một trong những cơ chế tự bảo vệ của họ bướm nà thay vì nhiều động vật ăn côn trùng thường nhầm tưởng đó là cái đầu của một sinh vật lớn hơn và tấn công, con bướm chỉ bị rách một phần nhỏ ở cánh và bay thoát. Nhiều loài không có đuôi. Mặt dưới cánh có xu hướng cho thấy màu phối hợp của màu xám và màu nâu. Do có số lượng loài lớn và sự khác biệt giữa các loài nhiều khi rất ít, nên việc nhận dạng là khó khăn. Họ bướm này có vài nhóm khác nhau về tập tính sống và phân bố. Nhiều loài chỉ bay thấp, ít khi bay xa. Nhiều loài chỉ là “thành viên thường trực” của các vũng nước có chứa chất khoáng, chất thải của thú rừng. Một số loài có kích thước lớn hơn bay rất nhanh, thường đậu trên cây,

 

Mặc dù chúng cũng xà xuống đất hút chất khoáng. Hầu hết các loài thích chỗ trống, trảng cỏ, nơi có nhiều nắng. Một số loài có mối liên hệ với các loài kiến. Một số loài có ấu trùng được kiến chăm sóc. Đổi lại chúng tiết ra chất mật để trả ơn cho kiến. Bản thân bướm cái lúc đẻ trứng lên gần một cây có loài kiến nó cần, cũng tiết ra chất ngọt để dẫn dụ kiến đến tha trứng về tổ của chúng. Một số loài khác lại sống trong hang kiến, ăn thịt cả ấu trùng kiến. Việt Nam có trên 220 loài thuộc họ này.

Hesperiidae
 

Đây là một họ khác của bướm nhỏ. Họ Hesperiidae được phân biệt với tất cả các bướm khác bởi thân chúng ngắn và rộng và tương ứng là những cánh ngắn. Nó trông giống những con ngài hơn là những con bướm, và nay thực ra bao gồm cả một họ phụ riêng biệt ( Hesperiodea), khác biệt với những con bướm khác ( Papilionoidea). Không giống những họ bướm khác, tất cả các gân cánh trên cánh trước bắt đầu từ gốc cánh hoặc từ ô cánh, tất cả đều không chẻ chạc. Râu chùy hoặc râu móc ở trên đầu cách xa nhau. Một số loài có thế cánh đặc biệt khi bị bắt, các cánh giữ ở vị trí khoảng 45 độ so với thân, trong khi hầu hết các bướm khác đều đóng cánh của chúng lại.Sâu của họ bướm này ăn lá các loại cây khác nhau thuộc nhóm một lá mầm như cỏ ( poaceae), trong đó có cả lúa ( Oryxa sativa), chuối ( giống Múa), họ gừng ( Zingiberaceae…) Sâu thường có đầu sậm màu hơn so với thân, nhiều loài tạo thành một cái ống bằng lá cây chủ cuốn lại và chủ yếu ăn lá vào ban đêm. Nhiều giống trong họ này rất phức tạp về mặt phân loại, hầu như không thể nhận diện được bằng quan sát.

 

Đây có lẽ cũng là họ bướm ít được người không chuyên gia quan tâm do kích thước nhỏ, màu sắc không hấp dẫn. Mặc dù vậy, một số loài khá phổ biến và thường gặp. Họ này rất phong phú, có khoảng 250 loài ở Việt Nam.

Lybytheidae
 

Là một họ bướm nhỏ khác có vài loài ở Việt Nam. Tất cả các loài cánh có hình dạng đặc biệt, cánh trước dạng liền với đỉnh cụt. Cánh sau có một điểm trang trí kiểu vỏ sò. Họ Libytheidae được biết đến như những con bướm có vòi, bởi chúng có một mấu sờ dài ra ở phía trước đầu tạo thành một cái “vòi” vì thế chúng có tên tiếng anh chung là Snout Butterfly (bướm mỏ dài). Giống đực có những chân trước vô chức năng không hoàn hảo, trong khi giống cái lại có chân trước hoàn hảo. Các loài trong giống này xuất hiện theo mùa. Ở phía nam chỉ xuất hiện với số lượng lớn vào cuối mùa khô đầu mùa mưa, khoảng từ tháng ba đến tháng năm, thời gian còn lại trong năm hầu như không thấy. Các loài trong họ này bay rất nhanh, thấp, đường bay đổi liên tục, khó quan sát. Mặt dưới cánh phần lớn có màu sậm, loang lổ, phù hợp với tập tính hay đậu trên mặt đất và xếp cánh, giúp chúng ngụy trang tốt. Sâu của bướm mỏ dài ăn lá cây họ Sếu (Ulmaceae), đặc biệt là giống cây Celtis. Con đực của loài L.geoffroyi dễ nhận diện khi bay do mặt trên cánh có màu tím. Đây là một họ có ít loài, trên toàn thế giới chỉ có 13 loài, Việt Nam có bốn loài.

Nymphalidae
 

Nymphalidae là một họ bướm rất lớn, rất đa dạng về màu sắc, hình dạng. Phần lớn các loài có màu sậm (nâu, cam, đen) với các đốm, vệt, hoa văn trên cánh tinh xảo, phức tạp hơn hầu hết các họ bướm chủ, vùng phân bố.. cũng rất đa dạng. Tuy vậy ở tất cả các loài chân trước của chúng đều vô chức năng và ô cánh trên cánh sau luôn mở. Họ này bao gồm nhiều con lớn và bay khỏe (như Vargans egista, Parthernos sylivia). Nhiều loài bị thu hút bởi các vùng thoáng đãng và nắng ấm (như loài Neptis, thường thấy ở các khu vực đồng cỏ). Một số có thể tìm thấy quanh các vũng nước nhỏ hoặc bên bờ suối. Tuy vậy, có một số loài chỉ tìm có ở trong rừng như loài KallimaRhinopalpa . Những loài khác như Euthalia ngoài rừng ra thường tìm thấy ở những môi trường sống có rừng bao phủ. Nhộng của bướm Giáp dạng treo, không có dây tơ. Sâu ăn lá nhiều loại cây khác nhau. Điểm đặc trưng nhất về hình thái của sâu của họ này là chúng thường có gai phân nhánh, được gọi là scolus.Trứng thường có dạng quả táo, với các vân, gờ chạy từ trên đỉnh xuống. Một số loài khác có trứng đơn giản, dạng cầu, không có vân. Nhiều loài trong họ này rất phổ biến và dễ nhận diện. Một số loài rất hiếm, chỉ gặp trong rừng. Với khoảng 200 loài đã biết ở Việt Nam.và còn rất nhiều loài hiện vẫn chưa được định danh.

Papilionidae
 

Họ này bao gồm nhiều bướm lớn, ưa hoạt động và màu sắc sặc sỡ, phần lớn có màu sậm (đen, nâu, xanh đen…) với các đốm màu sáng hơn (trắng, đỏ, xanh…) trên cánh. Chúng có 6 chân dài và đầy đủ, chót râu cong. Những loài thường gặp trong họ này thuộc vài nhóm khác nhau rất đặc trưng. Các loài trong giống Papilio phần lớn có đuôi rõ rệt, kích thước lớn. Giống Graphium có kích thước trung bình, gồm vài nhóm khác nhau; nhóm có đuôi ngắn hoặc không đuôi và nhóm có đuôi rất dài. Một số loài bắt chước các loài thuộc họ Danainae. Chúng cũng bắt chước cả cách bay của những loài “kiểu mẫu”. Nhiều loài khi vừa đậu để hút thức ăn lỏng, cánh vẫn đập một lúc. Cây chủ thường là họ Cam chanh (Rutaceae), Na (Annonaceae). Một số đẻ trứng trên những loại dây leo có nhựa độc (các giống Troides, Pachliopta) thuộc họ Mộc hương (Aristolochiaceae). Trứng có dạng tròn. Sâu đặc trưng bởi phần đầu to, thường có hai dạng ngụy trang, dạng phân chim lúc còn nhỏ (giống Papilio) và dạng xanh lá lúc vào các tuổi cuối.

 

Nhộng thường có màu xanh, một số (ngay cả trong cùng loài) có dạng như dạng một cành cây khô. Nhiều loài bị thu hút bởi nước ở suối và những vũng nước nhỏ (đặc biệt là loài Dragontails, Lamproptera). Ở Việt Nam hiện nay có khoảng 60 loài

 
Order:
Bugs
Others
   

1 2

 
 
 

Introduction | Forum | Contact us | Latin read & write | Help | Vietnamese

 
© Copyright of Vietnam Forest Creatures
Tel: +844 3895729, 09.44.679.222 -  Email to:
Admin website