ỐC SỨ ĐỐM
BAN MIÊU ĐEN
Epicauta gorhami
Marseul, 1873
Họ: Ban miêu Meloidae
Bộ: Cánh cứng Coleoptera
Đặc điểm nhận dạng:
Loài ban miêu
có kích
thước nhỏ hơn so với ban miêu khoang đen hồng lớn Mylabrini phalerata. Cơ
thể chúng có màu đen trừ phần đầu có màu đỏ, tròn. Cấu tạo bên ngoài vỏ đầu có
nhiều lỗ chân lông cứng, thưa tạo thành những lỗ lõm. Khu trán chứa một đôi râu,
chân râu nằm ngay sát với đôi mắt kép màu đen, vùng trán ở giữa hai râu không có
lông cứng. Râu đầu của ban miêu mình đen đầu đỏ có hình sợi chỉ và có 11 đốt.
Đốt chân râu có kích thước lớn nhất, đốt cuống râu có kích thước nhỏ nhất, các
đốt roi râu hình ống dài gần bằng nhau và càng về cuối râu càng nhỏ dần. Các đốt
gốc râu, cuống râu và đốt roi râu thứ nhất có lông bao phủ, các đốt roi râu còn
lại trên bề mặt ko có lông bao phủ. Ban miêu mình đen đầu đỏ có kiểu miệng nhai
nghiền. Phần phụ miệng của ban miêu mình đen đầu đỏ gồm có môi trên và môi dưới.
Hàm dưới có 1 đôi xúc biện gồm 3 đốt. Dưới hàm ban miêu mình đen đầu đỏ có nhiều
lông cứng.
Lưng ngực trước (pronotum)
có hình quả lê, phần thót lại nối với đầu tạo thành khấc cổ rõ rệt, phần phình
to sát với gốc cánh, sát scutellum bằng mảnh kitin rất nhỏ màu đen hình bán
nguyệt. Hai đốt ngực sau được che bởi đôi cánh cứng dài đến hết cơ thể. Mặt bụng
thấy rõ rệt ba đốt ngực, trên mỗi đốt ngực có một đôi chân. Chân của ban miêu
mình đen đầu đỏ là dạng chân chạy. Mỗi chân gồm 5 đốt, bàn chân cấu tạo 5
- 5 - 4 và
có một đốt cuối tạo thành 2 vuốt. Trên chân có rất nhiều lông cứng, bàn chân có
lông nhỏ phủ kín. Đôi cánh cứng có màu đen tuyền cả mặt trong và mặt ngoài,
ngoài tác dụng bảo vệ cho cơ
thể thì còn giúp
cho ban miêu có thể dễ dàng lẩn trốn kẻ thù. Mặt trong của cánh có màu đen. Trên
đôi cánh cứng có nhiều gân, đặc biệt nhìn mặt trong của cánh có thể thấy rõ hơn
những gân cánh đó. Bề mặt của cánh có lớp lông mịn khá dày. Mặt
bụng có thể thấy được 6 đốt rõ rệt, thuôn nhỏ từ đốt đầu đến đốt cuối. Đốt cuối
tạo thành mảnh trên và mảnh dưới che đi cơ quan sinh sản. Mặt lưng bụng bóng mịn
và có màu đen. Các tấm bụng màu đen được kitin hóa tạo nên các tấm cứng. Giữa
các tấm đốt bụng có nối ngăn cách, theo các gờ nối là các riềm lông đen mảnh.
Các tấm bụng hơi gồ lên tạo thành gờ nổi cao chạy dọc cơ thể, gờ này giúp cho
phần bụng có thể căng phồng lên hay xẹp xuống khi hô hấp. Hai bên bụng có 2 hàng
lỗ thở dọc theo bụng.
Sinh học,
sinh thái:
Loài này thường gây hại trên Lúa
Oryza sativa, Khoai lang ipomoea batatas, Sắn
Manihot esculenta, Đậu phọng
Arachis hypogaea, Đậu nành
Glycine max, Cam
Citrus
sinensis, Cà phê
Coffea sp., Bông
Gossypium herbaceum, Bầu bí
Lagenaria siceraria, Mướp
Luffa cylindrica
và cây rừng từ tháng 5 đến tháng 11.
Giống như loài Ban miêu đầu đỏ
Mylabrini phalerata đây là loài côn trùng gây hại rất lớn đến các loại cây
trồng. Chúng có rất ít loài thiên địch vì cơ thể chúng có độc tố và gây hại mùa
màng chủ yêu vào ban đêm.
Phân bố:
Loài này phân bố rộng khắp các tỉnh Sơn La, Vĩnh Phúc, Bắc Giang,
Hà Tây, Hải Hưng, Hòa Bình, Quảng Ninh, Ninh Bình vào tới Thanh Hóa, Nghệ An...
và còn phân bố ở Hà Tĩnh, Quảng Trị, Đồng Nai, Bình
Phước.
Mô tả loài: Phùng Mỹ Trung WebAdmin.