HỒNG BÌ
HỒNG BÌ
Clausena
lansium
(Lour.) Skeels.
Họ: Cam Rutaceae
Bộ: Cam Rutales
Đặc điểm nhận dạng:
Cây nhỡ cao 3 - 4 (-12)m, thường xanh. Cành non
hơi ráp, sau sần sùi vì có nhiều tuyến; lá kép mọc so le, gồm 5 - 13 lá chét
hình trái xoan, lá chét cuối hình trứng, đầu nhọn, gốc hơi lệch, mép lá nguyên
hay hơi khía tai bèo, có nhiều điểm tuyến chứa dầu. Hoa trắng mọc thành chùy
thưa ở ngọn. Quả hình cầu, màu vàng, có 1 - 2 ô, chứa một hạt to.
Sinh học, sinh
thái:
Cây ưa sáng, ưa đất tốt mọc trên các sườn đồi
có độ dốc trung bình. Cũng được trồng nhiều ở miền
Bắc nước ta để lấy quả ăn. Thu hái rễ, lá quanh năm, tốt nhất là vào mùa thu;
thu hái quả cả vỏ khi quả chín,, hoặc dùng hạt và phơi khô.
Tái sinh hạt và chồi đều tốt. Ra hoa vào tháng 4 - 5, có quả tháng 6 - 8.
Phân bố:
Loài của Nam Trung Quốc và Bắc Việt Nam. Ở nước
ta cây mọc hoang ở Hòa Bình, Ninh Bình, Quảng Ninh.
Công dụng:
Lá dùng trị: Cảm mạo, nhiễm lạnh và sốt. Viêm
não, màng não truyền nhiễm. Sốt rét. Rễ và hạt dùng trị: Đau dạ dày, đau thượng
vị, đau thoát vị, đau bụng kinh. Thấp khớp đau nhức xương,
hạ nhiệt, làm long đờm. Rễ và hạt có vị đắng và cay tính hơi ấm;
có tác giảm đau, lợi tiêu hoá, tiêu phù. Quả có vị ngọt và chua, tính hơi ấm; có
tác dụng làm long đờm kích thích tiêu hoá và ngừng nôn mửa.
Quả dùng trị: Tiêu hóa kém, ho nhiều. Nhân dân
còn dùng lá nấu nước gội đầu cho sạch gầu, trơn tóc và nấu nước xông chữa thấp
khớp.
Tài liệu dẫn:
Cây thuốc Việt Nam - Võ văn Chi - Trang 580.