NHÁI CÂY SẦN VIỆT NAM
Theloderma vietnamense
Poyarkov
et al, 2015
Họ: Chẫu cây Rhacophoridae
Bộ: Không đuôi Anura
Đặc điểm nhận dạng:
Kích thước trung bình, đốt ngón chân phải thứ ba tiêu biến. Đầu dẹt, có chiều
dài lớn hơn chiều rộng. Đỉnh đầu có các đường vân tạo bởi các nốt sần vôi hoá.
Mõm tương đối ngắn, cụt vát tù ở góc nhìn từ lưng và hơi tròn ở góc nhìn nghiêng,
hơi lồi ra ở mép hàm dưới. Lỗ mũi gần mõm hơn mắt, có hình hơi thon bầu dục,
được bao bọc bởi viền da có chút lồi lên với một vành da nổi bật ở mặt bên. Vùng
má lõm rõ,
viền mắt tròn, tương đối rõ. Ổ mắt khá lớn, lồi lên ở góc nhìn từ
lưng và nhìn nghiêng. Đường kính mắt nhỏ hơn chiều dài mõm. Đồng tử mắt hướng
ngang, hình kim cương.
Màng nhĩ tròn rõ, có đường kính dọc bằng đường kính ngang, kích thước bằng 67%
đường kính mắt. Viền màng nhĩ nhô cao đến gần da của vùng thái dương. Nếp màng
nhĩ không rõ, chỉ lộ ở rìa sau và sệ xuống. Răng cửa tiêu biến. Mắt đơn (mắt
đỉnh) tiêu biến. Xoang mũi hình bầu dục, ở mép đáy mõm. Túi kêu mở rõ. Lưỡi rộng,
nhọn hình chữ V ở chóp sau.
Sinh học sinh thái:
Sống thành từng cặp,
đẻ trứng trong các hốc cây có nước, trong các khu rừng thường xanh
còn tốt, đôi khi gặp ở các hố nước tự nhiên vào mùa mưa. Thức ăn là các loài côn
trùng trong khu vực, con cái đẻ từ 6 đến 10 trứng ở trên mép hố nước. Nòng nọc
phát triển trong bọc trứng, sau một thời gian chui ra khỏi vỏ trứng rớt xuống hố
nước. Trong giai đoạn này nếu không có thức ăn ếch mẹ sẽ đẻ trứng không thụ tinh
làm thức ăn cho con non. Trong môi trường nuôi nhốt cần có tanin mới giúp con
non sông sót và phát triển.
Phân bố:
Hầu
khắp các tỉnh ở Việt Nam từ Quảng Nam - Đà Nẵng đến Cà Mau và các đảo ở xa bờ ở
khu vực miền trung, miền Nam Việt Nam. Loài mới được nhà nghiên cứu lưỡng cư
người Nga Poyarkov cùng các đồng nghiêp phát hiện năm 2015. Sau rất nhiều năm
nhầm lẫn với loài
Theloderma stellatum.
Mô tả loài:
Phùng Mỹ Trung, Nguyễn Quảng Trường, Nguyễn Thiên Tạo, Phạm Thế Cường -
WebAdmin.