ẾCH CÂY LỚN
ẾCH CÂY LỚN
Rhacophorus maximus
Günther, 1858
Rhacophorus
gigas
Jerdon, 1870
Zhangixalus
smaragdinus
(Blyth, 1852)
Họ: Chẫu cây Rhacophoridae
Bộ:
Không đuôi Anura
Đặc điểm nhận
dạng:
Đầu rộng hơn dài
một chút, rộng hơn chiều rộng thân; mõm cụt ở phía trước; gờ mõm tù, vùng má hơi
lõm. Răng lá mía dài, mảnh, xếp ngang, chạm bờ trước lỗ mũi trong; lưỡi hình bầu
dục dài, phần gốc rộng, đầu lưỡi xẻ sâu. Lỗ mũi nằm sát mút mõm, khoảng cách từ
mắt đến mũi gần bằng ường kính mắt. Mắt lớn và lồi, đường kính mắt lớn hơn chiều
rộng mí mắt trên. Vùng trán rộng, lõm, gian ổ mắt lớn hơn ường kính mắt. Màng
nhĩ rõ, đường kính màng nhĩ bằng khoảng 2/3 lần ường kính mắt. Có nếp da từ sau
mắt kéo dài qua màng nhĩ đến trước vai. Miệng rộng, đến 1/2 màng nhĩ. Chi dài,
khớp gối và khớp khuỷu gối lên nhau rõ khi gập sát thân. Mút ngón tay và ngón
chân phình rộng thành đĩa, đĩa ngón tay lớn hơn đĩa ngón chân. Đĩa ngón tay II,
III và IV lớn hơn ường kính màng nhĩ; đĩa ngón chân gần bằng đường kính màng nhĩ.
Màng giữa các ngón tay II, III, IV rộng, hoàn toàn, màng ngón I đến 1/2 ngón;
màng giữa các ngón chân rộng, hoàn toàn. Củ bàn tay trong lớn, nổi rõ, không có
củ ngoài. Bàn chân có củ trong nhỏ, hình bầu dục. Bờ ngoài ống và cổ bàn tay có
riềm da lớn, tạo thành nếp da ở ngón IV. Riềm da ở cổ bàn chân nhỏ hơn, cũng tạo
thành nếp da ở ngón V. Bờ ngoài ống chân không có riềm da. Không có nếp da sau
lỗ huyệt.
Màu sắc
trong tự nhiên:
Da màu xanh thay đổi từ con non đến trưởng thành, màng bơi con non có màu đỏ
thẫm nhưng trưởng thành có màu đen nhạt, trắng bạc, Cằm, họng và ngực nhẵn, bụng
và dưới đùi sần, nổi hạt rõ. Thân màu xanh nhạt, đùi và ống chân có các vệt
ngang sẫm màu hơn. Mặt bụng màu vàng nhạt ở các cá thể non và màu trắng với các
đốm màu đen khi trưởng thành.
Rhacophorus
maximus
khác các loài cùng Giống Rhacophorus sp. ở Đông Nam Á trừ các loài
Rhacophorus dennysi, Rhacophorus duboisi,
Rhacophorus feae, Rhacophorus kio,
Rhacophorus maximus, Rhacophorus
nigropalmatus Bờ ngoài ống chân không có riềm da. Không có nếp da sau lỗ
huyệt. Rhacophorus maximus khác biệt với Rhacophorus helenae bởi
có lưng màu xanh lá, hoa văn vàng nhạt ở sau đùi, vết đen ở nách, một riềm da và
màng da khớp cổ chân.
Sinh học, sinh
thái:
Kiếm ăn ban đêm, xuất hiện sau cơn mưa từ thàng 6 đến tháng 9 hằng năm ở các khu
vực rừng thường xanh còn tốt. Thức ăn là các loài ấu trùng sống trong khu vực
sinh sống. Đẻ trứng vào tháng 6 đến tháng 9 hàng năm. Trứng được đẻ
trong các tổ bòn bọt được ếch cái cuộn lá lại và có đường kính 6 -
8cm, sát mép nước, Giai đoạn đầu nòng nọc sẽ ăn các dưỡng chất do con me cung
cấp trong tổ bòn bọt. Sau một thời gian chúng sẽ chui ra và rớt xuống khu vực có
nước tiếp tục vòng đời
biến thái - Ăn thực vật, Di chuyển bằng đuôi,
Thở bằng mang và sống bấy đàn trước khi mọc chân, tiêu giảm phần đuôi và lên cây
để sống.
Phân bố:
Trong nước: Vườn
quốc gia Phong Nha - Kẻ Bàng, Thừa Thiên - Huế, Vườn quốc gia Bạch Mã, Nghệ An,
Hà Tĩnh, Quảng Bình.
Nước ngoài: Đông
Bắc Ấn Độ, Nepal; Bhutan; Đông nam Tây Tạng, Trung Quốc;
Mô tả loài:
Hoàng Ngọc Thảo, Nguyễn Quảng Trường, Phùng Mỹ Trung - WebAdmin.