Cầy cỡ nhỏ,
thân dài, đuôi dài. Bộ lông mầu vàng trắng, có nhiều đốm nâu đen từ cổ đến
gốc đuôi và đùi; bốn sọc dọc từ cổ đến bả vai. Đuôi có 8 - 9 vòng đen, trắng
khác với Cầy linsang chỉ 7 vòng. Phần bụng và Họng sáng trắng hơn phần lưng. Cả
đực và cái đều có tuyến xạ.
Sinh học, sinh
thái:
Thức ăn gồm
chuột, rắn, ếch nhái, chim nhỏ, côn trùng. Nơi sống và hoạt động: ở rừng, chủ
yếu rừng thứ sinh có nhiều dây leo
cây bụi. Chưa gặp cầy ở bìa rừng. Hoạt động chủ yếu trên các cây thấp cách
mặt đất 1 - 1,5m, đôi khi cũng xuống mặt đất. Cầy gấm sống độc thân, thầm lặng,
hoạt động ban đêm. Đẻ con
trong các hốc cây, mỗi lứa 2 con (Kanchanasakha, et al.1998).
Phân
bố:
Trong
nước:
Nơi thu mẫu: Lào Cai, Bắc Kạn, Tuyên Quang, Thanh Hoá, Lạng Sơn, Bắc Giang,
Quảng Ninh, Hoà Bình, Hà Tĩnh, Gia Lai, Lâm Đồng. Cầy gấm phân bố rộng ở Việt
Nam.
Thế
giới: Ấn Độ,
Nêpan, Mianma, Trung Quốc, Thái Lan, Inđônêxia, Lào.
Giá trị:
Loài thú quí hiếm và
có giá trị nghiên cứu khoa học. Góp phần điều hoà số lượng cá thể quần thể các loài động vật
con mồi trong môi trường tự nhiên
và góp phần
cân bằng sinh thái.
Tình trạng:
Trước đây khá phổ
biến, hiện nay bị suy giảm nhiều về trữ lượng và vùng phân bố do săn bắn quá mức
và phá rừng.
Phân
hạng:
VU A1c,d
Biện
pháp bảo vệ:
Đã được
đưa vào
Sách đỏ Việt Nam và Nhóm IIB Nghị Định Nghị định 32/2006/NĐ-CP. Cần kiểm soát
ngăn chặn việc săn bắt và buôn bán.
Tài
liệu dẫn: Sách đỏ Việt Nam
- phần động vật – trang 31.