VOỌC XÁM
VOỌC XÁM
Trachypithecus barbei
(Anderson,
1879)
Presbytis phayrei
Blyth, 1847.
Họ:
Khỉ Cercopithecidae
Bộ: Linh
trưởng Primates
Đặc điểm nhận
dạng:
Bộ lông màu xám
tro tới màu nâu đen, trên đầu có mào lông, da bao quanh mắt có màu xanh và
trắng. Lông ở vùng lưng thẫm hơn ở vùng bụng. Bên hông có các lông dài, đầu lông
có ánh bạc. Đuôi dài hơn thân, lông đuôi rất dài. Chân tay có màu đen, phần trên
cánh tay, chân và đuôi có màu xám bạc.
Sinh học, sinh
thái:
Thức ăn chủ yếu
là quả 24,4%,
lá
58,4%, các loại khác 9,7%. Voọc xám sinh sản quanh năm. Gặp voọc cái có chửa
vào tháng 3 và tháng 7. Gặp voọc mẹ mang con trên ngực vào tháng 4, 6, 10, 12.
Mỗi lứa đẻ một con, con non màu vàng nhạt. Voọc
xám thường
sinh sống ở những vùng rừng cây cao trên núi đá vôi, không sống trên rừng
hỗn giao tre nứa. Hoạt động vào ban ngày. Cuộc sống leo trèo trên cây. Có thể
gặp chúng kiếm ăn ở vùng đồi cây bụi gần rừng. Thường ngủ trên các vánh núi đá
vôi dựng đứng hoặc trên các gốc cây mọc ở vách núi treo leo. Mùa đông ngủ trong
hang hoặc trên các tán cây rậm kín gió. Voọc xám sống chung với khỉ mốc, khỉ
vàng nhưng không cạnh tranh về thức ăn. Kẻ thù tự nhiên là các loài thú ăn thịt
cỡ lớn.
Chúng sống thành từng nhóm từ 3- 30 cá thể.
Phân bố:
Trong nước:
Lai Châu (Mường Nhé, Mường Tè), Hà Tây, Hoà Bình (Kim Bôi), Thanh Hoá ( Hồi
Xuân, Thường Xuân), Ninh Bình (Cúc Phương), Nghệ An (Nghĩa Đàn, Quế Phong, Kỳ
Sơn), Hà Tĩnh (Anh Sơn), Quảng Bình (Bố Trạch, Tuyên Hoá, Minh Hoá)
Thế giới: Mianma, Nam
Trung Quốc, Thái Lan, Lào, Cămpuchia.
Giá trị sử dụng:
Có giá trị khoa
học cao có thể dùng làm mẫu vật nghiên cứu, dùng để nuôi làm cảnh
ở các vườn thú hay công viên hoang dã.
Tình trạng:
Trước năm 1975,
loài này còn gặp rất phổ biến ở các khu rừng già thuộc các tỉnh Tây Bắc Việt Nam
trên diện tích ước tính khoảng >2.000km2.
Từ
năm 1975 trở lại đây tình trạng của loài thay đổi rõ rệt. Số lượng
quần thể giảm mạnh. Số lượng tiểu quần thể hiện nay >10. Nguyên nhân biến
đổi có thể là: Nơi cư trú bị
xâm hại, rừng bị chặt phá, diện tích rừng tự nhiên bị thu hẹp và đây là đối
tượng săn bắt để nấu cao, buôn bán và xuất khẩu.
Phân
hạng:
VU A1c,d
Biện
pháp bảo vệ:
Đã được
đưa vào Sách đỏ Việt Nam 2000 và danh sách các loài cần được bảo vệ của ngành
Lâm nghiệp (Phụ lục IB Nghị định 32/2006/NĐ-CP ngày 22/4/2002 của Chính Phủ).
Kiến nghị: Cần tiến hành tốt việc thực thi pháp luật, các quy chế, nghị định của
chính phủ về công tác bảo vệ động vật hoang dã. Xây dựng các khu bảo tồn thiên
nhiên và các
chương trình quản lý các loài động vật hoang dã nói chung và các loài bị đe
doạ nói riêng. Hiện
nay loài này cũng được bảo vệ trong các khu bảo tồn như: Khu bảo tồn thiên nhiên
Mường Nhé (Lai Châu), Vũ Quang, Kẻ Gỗ (Hà Tĩnh), Khe Nét (Quảng Bình).
Tài
liệu dẫn:
Sách đỏ Việt Nam
- phần động vật – trang 31.