Có mai hình ôvan,
viền ngoài mai có các khía nhọn. Trên mai có
4 đôi tấm vảy đối xứng dạng lợp ngói (trừ Đồi mồi con và thỉnh thoảng ở một
vài con trưởng thành), chiều dài thẳng mai khoảng 90cm. Đầu nhọn, rộng khoảng
12cm,
miệng có dạng như mỏ diều hâu, phần trước đầu có 2 tấm vảy. Trên mỗi chân
bơi có 2 móng vuốt sắc. Mai rùa mới nở màu vàng đen (từ vàng tối đến vàng sáng),
sau đó chuyển dần sang màu vàng nhạt. Bụng có màu vàng sáng đến trắng. ở viền
ngoài yếm có 4 đôi tấm xương.
Sinh học, sinh
thái:
Loài có
kích thước nhỏ so với các loài rùa biển khác. Chiều dài trung bình không
vượt quá 1m. Trọng lượng trung bình của rùa trưởng thành khoảng 60kg, tối đa là
80kg. Mùa
đẻ trứng tháng 2 - 6, mỗi lần đẻ từ 70 - 130 trứng. Các ổ trứng sâu 40 -
50cm, thời gian ấp trứng là 55 - 60 ngày. Giới tính của rùa
con được
quyết định bởi nhiệt độ môi trường. Thành phần thức ăn: các loại hải miên,
san hô mềm, cá, tôm, cua, các loại rong và cỏ biển. Sinh cảnh làm tổ thường cách
biệt (cả về không gian lẫn thời gian) với các sinh cảnh do các loài rùa biển
khác. Nơi sinh sống: vùng triều, vùng khơi, ven đảo. Trước năm 1980 đã có trại
giống và tổ chức nuôi ở Cát Bà (Hải Phòng) và Hà Tiên (Kiên Giang).
Phân bố:
Trong nước: ở
khắp vùng biển Việt Nam trước 1990. Các tỉnh ven biển Việt Nam, chủ yếu Quảng
Ninh, Hải Phòng, Phú Yên, Khánh Hoà, Bình Thuận, Côn Đảo, Kiên Giang, quần đảo
Hoàng Sa và Trường Sa. Khu vực phân bố tập trung là xung quanh quần đảo Trường
Sa, Côn Đảo và Phú Quốc.
Thế giới: Vùng
biển nhiệt đới, ôn đới Thái Bình Dương, Ấn Độ Dương, Đại Tây Dương.
Giá tri:
Là một trong những
loài quan trọng trong hệ sinh thái biển. Đ
ồi
mồi trở nên quan trọng cho các mục đích không săn bắt như: tham quan, du lịch,
học tập, nghiên cứu khoa học v.v.
Tình trạng:
Trước năm 1990,
gặp phổ biến ở các tỉnh ven biển Việt Nam. Do nghề thủ công sử dụng mai, vảy làm
đồ mỹ nghệ bán cho khách du lịch phát triển mạnh nên nguồn lợi này đã và đang bị
suy giảm nghiêm trọng, vùng phân bố bị thu hẹp. Dự đoán số lượng giảm >50% do
đánh bắt quá mức, hiện còn khoảng 1000 cá thể trưởng thành.
Đã đưa vào Pháp lệnh bảo vệ nguồn lợi thuỷ sản năm
1987. Đề nghị đưa vào Luật Thuỷ sản, tuyên truyền trên báo chí, đài... Cấm đánh
bắt quanh năm bằng bất cứ hình thức và loại ngư cụ nào. Đã được đưa vào Sách Đỏ
Việt Nam, 2000. Biện pháp kỹ thuật: Quản lý khu bảo tồn các Vườn quốc gia ven
biển, cho ấp trứng, thả Đồi mồi con ra biển và có đánh dấu.
Tài liệu dẫn:
Sách đỏ Việt Nam - phần động vật – trang 251.