CẨM LAI
CẨM LAI
Dalbergia oliveri
Gamble ex Prain, 1897
Amerimnon bariense
Pierre, 1891
Dalbergia dongnaiensis
Pierre, 1898
Họ: Đậu Fabaceae
Bộ:
Đậu Fabales
Đặc điểm nhận
dạng:
Cây gỗ thường
xanh, có tán hình ô, cao 20 - 30 m, đường kính thân 0,5 - 0,6 m. Vỏ thân màu
xám, có đốm trắng hay vàng, không nứt nẻ; phần trong của vỏ có mùi sắn dây.
Lá kép lông chim một lần, lẻ, dài 15 - 25
cm, có 11 - 15 lá chét. Lá chét hình ngọn giáo - thuôn, dài 4 - 8 cm, rộng 1,5 -
3 cm, chóp lá tù đến nhọn, gốc lá tù hay tròn, hai mặt nhẵn, gân bên 9 - 12 đôi.
Cụm hoa hình chuỳ ở đỉnh cành hay ở nách lá phía đỉnh cành, dài 10 - 15 cm. Lá
bắc sớm rụng. Hoa nhỏ, màu lam nhạt, dài 12 mm. Đài có ống dài 4 - 5 mm, nhẵn
hay có lông, 5 răng. Tràng 5, cánh cờ hình tròn, lõm sâu dài và rộng 7 mm. Nhị
10, hàn liền thành 2 bó. Bầu 2 - 3 ô, có lông.
Quả đậu dài 10 - 12 cm, rộng 2 - 2,5 cm,
dẹt, hơi thắt eo ở nơi có hạt. hạt thường 1,
đôi khi là 2 trong mỗi quả, hình thận, dẹt, dài 8 - 10 mm, rộng 5 - 6 mm, màu
đen nhạt.
Sinh học, sinh
thái:
Mùa hoa tháng 12
- 1 (năm sau), quả chín tháng 2 - 4 (năm sau), tái sinh bằng hạt,
cây sinh trưởng chậm. Cây gặp rải rác trong rừng, nơi ẩm, đất bằng phẳng hoặc có
độ dốc nhỏ, tầng đất dày, thoát nước, ở độ cao đến 800 - 900 m.
Phân bố:
Trong nước:
Kontum (Sa Thầy), Gia Lai, Đắk Lắk (EaSup, Lắk), Đắk Nông (Đắk Mil), Phú Yên,
Khánh Hoà, Ninh Thuận, Bình Thuận, Bình Phước, Tây Ninh, Đồng Nai, Bà Rịa - Vũng
Tàu.
Nước ngoài:
Mianma, Thái Lan, Lào, Campuchia.
Giá trị:
Gỗ quí đặc biệt,
bền, chắc, có màu sắc và vân đẹp, được dùng đóng đồ cao cấp trong gia đình (bàn,
ghế, tủ, giường...) sản xuất các đồ mỹ nghệ, khắc, trạm, tiện...
Tình trạng:
Vì là gỗ quý nên
gỗ cẩm lai là đối tượng săn lùng, khai
thác, đến nay rất khó tìm thấy những cá thể trưởng thành có đường kính lớn như
trước đây. Mặc dù khu phân bố rộng nhưng bị chia cắt cũng như do tác động chặt
phá rừng nên nơi cư trú bị xâm hại nghiêm trọng, nhiều khu vực gần như không còn
tìm thấy Cẩm lai.
Phân hạng:
EN A1a,c,d.
Biện pháp bảo vệ:
Loài đã được ghi
trong Sách Đỏ Việt Nam (1996) với cấp đánh giá "sẽ nguy cấp" (Bậc
V) và Danh mục Thực vật rừng, Động vật
rừng nguy cấp, quý hiếm (nhóm 2) của
Nghị định số 32/2006/NĐ - CP ngày 30/3/2006
của Chính phủ để hạn chế khai thác, sử dụng vì mục đích thương mại. Đã
được bảo vệ trong một số khu bảo tồn thiên nhiên, thường vẫn bị khai thác trộm,
cần có biện pháp bảo vệ nghiêm ngặt. Là đối tượng gỗ cấm khai thác. Cần được bảo
vệ đồng thời tìm nguồn giống đưa vào trồng rừng.
Tài liệu dẫn:
Sách đỏ Việt Nam 2007 - phần thực vật - trang 194.