ĐUÔI NGỰA
ĐUÔI NGỰA
Rhoiptelea chiliantha
Diels &
Hand. - Mazz., 1932
Họ: Đuôi ngựa Rhoipteleaceae
Bộ:
Đuôi ngựa Rhoipteleales
Đặc điểm nhận dạng:
Cây gỗ trung bình, rụng lá mùa khô,
cao 15 - 20m, đường kính 30 - 40cm, vỏ màu xám. Lá kép lông chim một lần, dài
15 - 30cm, gồm 7 - 19 lá chét. Lá kèm dạng lá, sớm rụng. Lá chét mọc cách, hình
mũi mác, dài 5 - 14cm;
mép lá có răng cưa. Cụm hoa chuỳ dài tới 30cm, rủ xuống, gồm những đuôi sóc
hợp thành. Hoa tạp tính, cùng gốc, thường trong 1 xim hai ngả thì hoa giữa lưỡng
tính và hữu thụ, 2 hoa bên là hoa cái và thường thui. Lá đài 4, tồn tại theo quả;
không có cánh hoa. Nhị 6, rời. Bộ nhuỵ gồm 2 lá noãn hợp thành
bầu thượng 2 ô (nhưng 1 ô không phát triển); vòi nhụy 2, hình phiến mỏng.
Quả hạch khô, nhỏ, hình quả lê ngược, hơi dẹt, có 2 cánh màng.
Sinh học, sinh thái:
Mùa hoa tháng 3 - 4, có quả tháng 7
- 8. Cây ưa sáng, mọc rải rác trong rừng ẩm, ven rừng, ven bờ suối, ở độ cao 700
- 2.000m.
Phân bố:
Trong nước: Lai Châu (Tả Phìn), Lào Cai (Sapa,
Ô Quý Hồ), Yên Bái.
Nước ngoài: Trung Quốc (Vân Nam, Quý Châu, Quảng
Tây).
Giá trị:
Nguồn gen rất độc đáo và là loài duy nhất của họ
Đuôi ngựa Rhoipteleaceae, đặc hữu của vùng Đông Á. Gỗ màu vàng xám, nhẹ, mềm,
dùng đóng đồ mộc thông thường. Vỏ và quả chứa nhiều tanin.
Tình trạng:
Loài có khu phân bố hẹp, phạm vi
không vượt quá 500 km2, rừng ở các điểm trên đã bị tàn phá nghiêm trọng. Cây mọc
rất rải rác, số cá thể gặp không nhiều, lại bị khai thác lấy gỗ.
Phân hạng:
EN B1+2b,c,e.
Biện pháp bảo vệ:
Loài đã được ghi trong
Sách Đỏ Việt Nam (1996) với cấp đánh giá
"bị đe doạ" (Bậc
T). Không chặt phá những cây trưởng thành còn sót lại ở các điểm phân bố,
nhất là ở vùng Sapa - Ô Quý Hồ.
Tài liệu dẫn:
Sách đỏ Việt Nam 2007 - phần thực vật - trang 313.