Trang chủ | Tổng quan | Mẫu gỗ | Vườn quốc gia | English

Từ điển Latin-Việt

TỰ NHIÊN BÍ ẨN

THÔNG TIN MỚI

TRA CỨU THỰC VẬT RỪNG VIỆT NAM

(Hơn 2350 loài thuộc các họ, bộ, nhóm khác nhau)
Cập nhật 20/11/2023

 

 

Tên Việt Nam: Bình vôi nhị ngắn
Tên Latin: Stephania brachyandra
Họ: Tiết dê Menispermaceae
Bộ: Mao lương Ranunculales 
Lớp (nhóm): Cây thuốc  
       
 Hình: Sách đỏ Việt Nam  
-------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------
   

BÌNH VÔI NHỊ NGẮN

Stephania brachyandra Diels, 1910

Họ: Tiết dê Menispermaceae

Bộ: Mao lương Ranunculales

Đặc điểm nhận dạng:

Dây leo nhỏ, sống nhiều năm. Rễ củ to (củ), hình dạng bất định. Thân leo dài 2 - 3m hoặc hơn, nhẵn. Lá mọc so le; có cuống, đính trong phiến lá thành dạng hình khiên. Phiến lá hình trứng nhọn hoặc gần giống hình tam giác tròn, 6 - 14 x 5 - 10 cm; đầu nhọn, gốc bằng hoặc hơi lồi. Gân chính dạng chân vịt, xuất phát từ chỗ đính của cuống lá. Hoa đơn tính khác gốc. Cụm hoa cái do 7 - 9 xim tán nhỏ hợp thành; cuống cụm hoa 2 - 3 cm, đầu hơi phồng to. Hoa có cuống rất ngắn, mọc xít nhau ở đầu cuống cụm hoa; hoa nhỏ, 1 lá đài và 2 cánh hoa xếp cùng một bên của hoa; lá đài màu lục nhạt, hình mác rộng; cánh hoa hình trứng ngược, màu vàng cam. Bầu hình trứng, hơi cong; núm nhuỵ 4 - 5, dạng gai nhỏ. Quả hình trứng rộng, hơi dẹt, 0,7 - 0,8 x 0,6 - 0,7cm. Hạt hình trứng ngược, dẹt, cụt đầu, có lỗ ở giữa; trên lưng có 4 hàng gai ngắn dạng mũ đinh. Chưa thấy hoa đực.

Sinh học, sinh thái:

Mùa hoa tháng 5, quả tháng 6 - 8. Mọc chồi thân và từ cổ rễ vào đầu mùa xuân. Sau khi bị chặt phá, phần còn lại vẫn có khả năng tái sinh. Trồng được bằng hạt hoặc từ các cây con thu thập trong tự nhiên. Cây ưa ẩm, ưa sáng hay hơi chịu bóng; ưa vùng có khí hậu quanh năm ẩm mát. Thường mọc ở rừng kín thường xanh còn nguyên sinh hay đã trở nên thứ sinh, trên núi đất hoặc đất lẫn đá, ở độ cao từ 800 - 2000 m.

Phân bố:

Trong nước: Lai Châu (Phong Thổ), Lào Cai (Sapa), Sơn La (Phù Yên).

Nước ngoài: Trung Quốc (Vân Nam), Myanmar.

Giá trị:

Nguồn gen tương đối hiếm đối với Việt Nam. Rễ củ (củ) có hoạt chất dùng làm thuốc an thần, giảm đau. Là loài có hoạt chất với hàm lượng cao so với các loài bình vôi khác hiện có ở Việt Nam.

Tình trạng:

Đã bị khai thác nhiều cùng với các loài bình vôi khác để làm thuốc. Môi trường sống bị huỷ hoại và thu hẹp do nạn phá rừng (Sapa, Phù Yên). Hiện đã trở nên hiếm gặp, nguy cơ bị tuyệt chủng cao.

Phân hạng: EN A1d, B1+2e

Biện pháp bảo vệ:

Loài đã được ghi trong Sách Đỏ Việt Nam (1996) với cấp đánh giá “hiếm” (Bậc R) và Danh mục Thực vật rừng, Động vật rừng nguy cấp, quý, hiếm (nhóm 2) của Nghị định số 32/2006/NĐ - CP ngày 30/3/2006 của Chính phủ để hạn chế khai thác, sử dụng vì mục đích thương mại. Bảo vệ quần thể mọc tự nhiên ở Vườn quốc gia Hoàng Liên. Đã thu thập được một số cá thể trồng tại vườn Trại thuốc Sapa (Viện dược liệu). Cây sinh trưởng phát triển tốt. Có triển vọng trong bảo tồn ngoại vi (Ex situ).

 

Tài liệu dẫn: Sách đỏ Việt Nam 2007 - phần thực vật - trang 284.

 

 

 

Bản đồ phân bố của loài:

 

Bình vôi nhị ngắn

 

 

 
 

 


Giới thiệu | Tra cứu | Danh pháp | Diễn đàn | Liên hệ | Văn Bản | Trợ giúp | SVR Mobile

Mọi chi tiết xin liên hệ Admin website Sinh vật rừng Việt Nam
© Ghi rõ nguồn '
Sinh vật rừng Việt Nam' khi bạn phát hành lại thông tin từ Website này