SƠN ĐẬU CĂN
SƠN ĐẬU CĂN
Sophora subprostrata
Chun et T. Chen, 1958
Sophora tonkinensis Gagnep.,
(1914)
Họ: Đậu Fabaceae
Bộ:
Đậu Fabales
Đặc điểm nhận
dạng:
Cây bụi nhỏ, cao
1 - 2 m, phân cành, có lông, lá kép lông chim lẻ, dài 10 - 20 cm, mỗi bên có 8 -
11 lá chét, cuống ngắn 1 - 1,5mm, có lông. Phiến lá chét hình trứng hoặc hình
trứng tròn dài, nhọn đầu, dài 1,5 - 2,5 cm, rộng 1 - 1,2 cm. Lá chét cuối cùng
tương đối lớn. Mặt trên có lông thưa, mặt dưới phủ nhiều lông màu nâu xám. Cụm
hoa hình bông giả ở ngọn và đầu cành, dài tới 15 cm. Đài hình chuông, ít lông.
Cánh hoa màu vàng trắng. Bầu có lông, quả đậu, dài 2 - 5 cm, chứa 3 - 5 hạt.
Sinh học, sinh
thái:
Mọc trong rừng
cây bụi, núi đá vôi, độ cao khoảng 800m trở lên. Cây ưa sáng, ưa ẩm song cũng có
khả năng hơi chịu bóng (lúc cây còn nhỏ hoặc cây tái sinh chồi) và chịu hạt. Cây
sinh trưởng manh vào mùa xuân hè. Mùa hoa quả tháng 4 - 7. Nếu cây không bị chặt
phá thì hàng năm có thể ra hoa kết trái đều. Cây mọc chồi vào mùa xuân. Hoặc khi
bị chặt phá, phần còn lại vẫn có khả năng tái sinh tốt.
Phân bố:
Trong nước: Cao
Bằng (Hạ Lạng, Trùng Khánh), Hà Giang (Mèo Vạc).
Nước ngoài: Trung
Quốc (Quảng Tây, Qúy Châu).
Giá trị:
Nguồn gen qúy,
hiếm ở Việt Nam. Rễ dùng làm thuốc chữa bệnh kiết lỵ, ho, giải độc (ở Trung Quốc
dùng nhiều với tên vị thuốc khác là quảng đậu căn chữa đau họng, sưng họng,
nhiệt kiết, táo bón. Dùng ngoài chữa răn cắn và nhọt độc).
Tình trạng:
Cây qúy hiếm,
phân bố hẹp, trữ lượng không đáng kể, lại thường bị chặt phá bừa bãi.
Mức độ bị đe
dọa:
Bậc T (theo Sách đỏ Việt Nam 1996)
Đề nghị biện pháp
bảo vệ:
Khoanh bảo vệ 2
điểm có sơn đậu căn ở Trùng Khánh và Mèo Vạc. Trồng giữa tại trại thuốc Tam Đảo.
Tài liệu dẫn:
Sách đỏ Việt Nam 2000 - phần thực vật - trang 257.