TRAI
TRAI
Garcinia fagraeoides
A.Chev, 1918
Họ: Bứa Clusiaceae
Bộ: Chè Theales
Đặc điểm
nhận dạng:
Cây gỗ to thường xanh, cao đến 20 - 25 m
hay hơn nữa, đường kính thân 0,7- 0,8 m. Vỏ màu xám thẫm, bong từng mảng; thịt vỏ
hơi hồng, có nhựa mủ vàng. Cành con gần tròn. Lá hình bầu dục dài hay hình mác
ngắn, lúc non màu tím đỏ, khi trưởng thành mặt dưới có màu vàng lục, chất da,
dài 10 - 15 cm, rộng 5 - 6 cm, đầu có mũi nhọn, có 5 - 7 đôi gân bậc hai nồi rõ
mặt dưới; cuống lá dài 0,5 cm. Cụm hoa chùm, từ 6 -10 hoa,
Quả hạch hình cầu.
Sinh học,
sinh thái:
Mùa hoa tháng 4, có khi còn mùa thứ hai
vào tháng 11 (huyện Na Hang, Tuyên Quang); mùa quả chín tháng 9. Hạt khó nảy mầm
nên ít cây mạ và do đó tái sinh trong tự nhiên kém. Mọc rải rác trong rừng mưa nhiệt đới
thường xanh mưa mùa ẩm, trên núi đá vôi, ở độ cao không quá 900 m, tốt nhất ở
chân núi có tầng đất dày, màu mỡ và ẩm.
Phân bố:
Trong nước: Cao
Bằng (Ba Bể), Lạng Sơn (Bắc Sơn : Mỏ Dẹ, Hữu Lũng : Hưu Liên), Bắc Thái, Hòa
Bình, Hà Bắc, Ninh Bình (Cúc Phương), Nghệ An (Quỳ Châu).
Nước ngoài: Trung Quốc (Quảng Tây)
Giá trị:
Gỗ cứng,
màu vàng, khó gia công. Dùng
trong xây dựng đóng tàu thuyền và chạm khắc. Cây có
hoa đẹp có thể trồng ở công viên, đường phố hay biệt thự làm cảnh.
Tình
trạng:
Sẽ nguy cấp. Do bị săn tìm ráo riết để
chặt lấy gỗ tốt và sự tái sinh kém.
Đề nghị
biện pháp bảo vệ:
Là đối tượng bảo vệ của vườn quốc gia
Ba Bể Bắc Thái) và các khu bảo tồn thiên nhiên Mỏ Dẹ và Hữu Liên tỉnh Lạng Sơn.
Tài liệu dẫn:
Sách đỏ Việt
Nam 2016
- phần thực vật -
trang 141.