HOÀNG LIÊN
HOÀNG LIÊN
Coptis chinensis
Franch., 1897
Coptis teeta
var. chinensis (Franch.) Finet & Gagnep., 1904
Họ: Mao lương Ranunculaceae
Bộ: Mao
lương Ranunculales
Đặc
điểm nhận dạng:
Cây
thảo, sống nhiều năm; cao 10 - 25 cm. Thân rễ nằm ngang, phân nhánh, màu vàng
đậm. Lá có cuống dài 8 - 20 cm, mọc tập trung ở đầu thân rễ. Phiến lá mỏng, dai,
mặt trên hơi bóng; chia thành 3 thuỳ chính, mép khía răng không đều; thuỳ giữa
gần giống hình tam giác cân, xẻ thuỳ thứ cấp hình lông chim; hai thuỳ bên giống
nhau, chia thành 2 thuỳ sâu không đều, có cuống ngắn hơn của thuỳ giữa. Cụm hoa
gồm 3 - 5 cái, mọc tụ tán trên một cuống chung, thấp hơn hoặc bằng tán lá. Hoa
nhỏ, màu vàng chanh; 5 lá dài hẹp dạng cánh hoa; cánh hoa 5 hình thuôn dài, ở
giữa có rãnh mật. Nhị nhiều, bầu nhỏ, 8 - 12 lá noãn. Quả nhỏ, dài 6 - 7 mm, có
cuống ngắn.
Sinh học, sinh thái:
Mùa
hoa tháng 9 - 10 (11), quả tháng 10 - 2 (năm sau). Nhân giống tự nhiên chủ yếu
bằng hạt, xung quanh gốc cây mẹ. Chồi từ đầu thân rễ mọc lên khoảng tháng 3 - 4.
Cây ưa bóng và ưa ẩm; thường mọc thành đám nhỏ, bám trên đá hay trên thân các
cây gỗ có nhiều rêu; ở đỉnh núi cao, quanh năm có sương mù, lạnh, ở độ cao từ
1600 - 2600 m.
Phân bố:
Trong nước: Lào Cai (Sapa), Hà Giang (Quản Bạ).
Nước ngoài:
Trung Quốc (Tứ Xuyên, Quí Châu, Hồ Nam, Hồ Bắc, Triết Giang).
Giá
trị:
Nguồn gen quý hiếm đối với Việt Nam. Thân rễ có hàm lượng berberin cao (7 - 8%).
Thân rễ hoặc tất cả các bộ phận khác của cây được dùng làm thuốc chữa các bệnh
đường tiêu hoá, như viêm ruột và dạ dày, ỉa chảy, kiệt lỵ, mụn nhọt, đau mắt đỏ.
Là vị thuốc quý trong y học cổ truyền phương đông (Trung Quốc, Nhật Bản, Triều
Tiên, Việt Nam) và có giá trị kinh tế cao.
Tình trạng:
Việt Nam mới chỉ thấy ở 2 điểm phân bố, diện tích nơi sống rất hẹp. Thường xuyên
bị tìm tòi để khai thác, mặc dù đã có những lệnh cấm; chỉ còn sót những cây nhỏ.
Nơi sống bị xâm hại do nạn phá rừng (Thái An - Quản Bạ). Hiện đã trở nên cực
hiếm, nguy cơ bị tuyệt chủng cao.
Phân hạng: CR A1c,d, B1+2b,c.
Biện pháp bảo vệ:
Loài đã được ghi trong Sách Đỏ Việt Nam (1996) với cấp đánh giá "đang nguy cấp"
(E) và Danh mục Thực vật rừng, Động vật rừng nguy cấp, quý hiếm (nhóm 1) của
Nghị định số 32/2006/NĐ - CP ngày 30/3/2006 của Chính phủ để nghiêm cấm khai
thác, sử dụng vì mục đích thương mại. Bảo vệ 2 điểm phân bố đã được xác định,
đặc biệt là điểm đang bịđe doạ xã Thái An,
huyện Quản Bạ (Hà Giang). Đang được nghiên cứu bảo tồn bởi Viện Dược liệu, nhưng cây sinh
trưởng kém. Cần tiếp tục đầu tư nghiên cứu cụ thể hơn.
Tài liệu dẫn:
Sách
đỏ Việt Nam 2007 - phần thực vật - trang 309.