BÀNG VUÔNG
BÀNG VUÔNG
Barringtonia asiatica
(L.) Kurz, 1876
Mammea asiatica
L.,
1753
Barringtonia
speciosa
Forst., 1776
Họ:
Lộc vừng Lecythidaceae
Bộ:
Lộc vừng Lecythidales
Đặc điểm nhận
dạng:
Cây gỗ nhỏ đến
trung bình, rụng lá trong mùa đông, cao 10 - 15 m, đường kính 30 - 80 cm. Lá đơn,
mọc cách, thường tập trung ở đầu cành,
phiến lá hình trứng ngược, cỡ 15 - 30 x 10 - 18 cm, gốc lá men theo
cuống; mép nguyên; gân bên 10 - 13 đôi; cuống lá rất ngắn. Cụm hoa chùm ở đầu
cành, dài 10 - 20 cm.
Hoa lưỡng tính, cuống dài 3,5 - 4 cm. Lá đài 2, to gần bằng nhau, màu
xanh lục, dài 3,3 - 3,5 cm, rộng 3,8 - 4 cm. Cánh hoa 4, không đều nhau, hình
lòng thuyền, màu trắng; cánh lớn nhất cỡ 6 - 7 x 2,5 - 3 cm; cánh nhỏ nhất 4,7 -
5 x 2,6 - 3 cm. Nhị rất nhiều (khoảng 250 - 350); chỉ nhị mảnh, dài 8 - 10 cm;
bao phấn đính gốc, màu vàng. Thời gian hoa nở rất ngắn, vào lúc nửa
đêm, sáng hôm sau cả khối nhị và cánh hoa rụng. Bầu hạ, 4 ô, có 4 gờ góc; vòi
dài 10 - 13 cm. Quả khô, hình chiếc đèn lồng 4 cạnh (ít khi 5 cạnh), mang vòi và
đài tồn tại; đường kính 7 - 10 cm, vỏ quả nhẵn, chứa 1 hạt.
Sinh học, sinh
thái:
Cây thường xanh
quanh năm, mọc ở ven đảo nơi có nhiều đất thịt pha cát hay đất thịt. Mọc rải rác
dọc bờ biển và ven các đảo. Mùa hoa quả tháng 2 - 7
Phân bố:
Trong nước: Quảng
Trị (đảo Cồn Cỏ), Quảng Ngãi (Lý Sơn), Khánh Hoà (quần đảo Trường Sa), Bình Định
(Cù lao xanh), Bà Rịa - Vũng Tàu (Côn Đảo), Kiên Giang (Phú Quốc, Hòn Thơm, Thổ
Chu), Cà Mau (Hòn Khoai) và các tỉnh ven biển phía Nam.
Nước ngoài: Ấn Độ,
Borneo, Campuchia, Đảo Caroline, Quần đảo Chagos, Đảo Cocos (Keeling), Comoros,
Đảo Cook, Fiji, Đảo Gilbert, Ấn Độ, Jawa, Đảo Sunda Nhỏ, Madagascar, Malaysia,
Maldives, Maluku , Marianas, Marquesas, Đảo Marshall, Mauritius, Nansei-shoto,
Nauru, New Caledonia, New Guinea, Đảo Nicobar, Niue, Ogasawara-shoto,
Philippines, Queensland, Réunion, Samoa, Đảo Santa Cruz, Seychelles, Sri Lanka,
Sulawesi, Sumatera, Đài Loan, Tanzania, Thái Lan, Tokelau-Manihiki, Tonga
Giá trị:
Gỗ tốt, chắc, màu
đỏ, dùng trong xây dựng. Lá dùng thay lá Dong để gói bánh chưng (ở đảo Trường
Sa). Tuy nhiên hạt bàng vuông có
độc và được xay
thành bột để giết hoặc làm cá bị tê liệt khi đánh cá.
Hạt bàng vuông từng được xay thành bột để giết hoặc làm cá bị tê liệt khi đánh
cá. Các bộ phận khác nhau của các loài này có nhiều công dụng. Hạt được
sử dụng làm chất độc thuốc cá, lấy tinh bột và dầu từ hạt được sử dụng để
thắp đèn (Huang et al., 2004). Hạt có chứa khoảng 2,5% lượng dầu, bao gồm
olein, palnitin và stearin, 0,54% axit gallic và 3,271% barringtonin, một loại
glucoside (Chopra et al., 1958)
Tình trạng:
Loài có khu phân
bố chia cắt. Số lượng cá thể gặp không nhiều. Cây bị khai thác lấy gỗ.
Phân hạng:
VU A1d.
Biện pháp bảo vệ:
Loài đã được ghi trong Sách Đỏ Việt Nam (1996) với cấp đánh giá
"hiếm" (Bậc R). Không chặt phá những cây trưởng thành còn sót lại ở các điểm
phân bố, đặc biệt ở các đảo Cồn Cỏ, Côn Đảo, Thổ Chu. Nên tìm nguồn giống để
trồng ở các vùng ven đảo làm cây bóng mát.
Tài liệu dẫn:
Sách đỏ Việt Nam 2010 - phần thực vật - trang 258.